Bi kịch tinh thần của người tri thức trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao — Không quảng cáo

Văn mẫu 11 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 11 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đời thừa


Bi kịch tinh thần của người tri thức trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao.

Nam Cao kết án một xã hội thù địch với khát khao vươn lên, hoàn thiện của con người. Một xã hội không vun xới cho những ước mơ cao đẹp, không vun trồng cho những tâm tính tốt đẹp mà chí đánh hỏng những đời người, thì đó là một xã hội phi nhân tính.

Tôi đã từng đọc những truyện ngắn trữ tình, đầy chất thơ của Thạch Lam khi ông viết Cô hàng xén, Tối ba mươi, Dưới bóng hoàng lan... để hiểu vì sao người ta coi trang văn của ông là những trang thơ ngọt ngào, đằm thắm, tinh tế và dịu nhẹ. Tôi cũng từng đọc tùy bút Nguyễn Tuân khi ông viết Tờ hoa, Người lái đò sông Đà... để biết do đâu người ta nhận xét trang văn của Nguyễn Tuân là những trang hoa và mĩ từ được sử dụng một cách khéo léo và tinh tế. Thế nhưng, khi đọc truyện ngắn của Nam Cao, chỉ với Đời thừa thôi cũng đủ hiểu vì sao Nam Cao được coi là nhà văn hiện thực xuất sắc với nghệ thuật phân tích tâm lí tài ba, và trang văn của ông là những trang đời có sức sông, sức khái quá mãnh liệt.

Tất nhiên, hẳn có nhiều người còn thắc mắc và hoài nghi. Bởi lẽ, cái hiện thực mà chúng ta đang nói ở đây, tức là trong sáng tác của Nam Cao không chỉ là hiện thực của một con người, mà cao hơn, đó là hiện thực của một thời, một giai đoạn, một tầng lớp, một giai cấp trong xã hội. Nếu Chí Phèo là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng thì Đời thừa lại đứng ở vị thế của một tác phẩm thành công viết về đề tài người trí thức. Điều đặc biệt là người tri thức trong sáng tác của Nam Cao không phải chỉ là con người với đầy đủ cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái thấp hèn. Hai mặt ấy đang vật lộn, dằng xé, day dứt, ăn năn để hoàn thiện, và làm nên những bản hay nhất của tác phẩm.

Có người cho rằng: Viết về đề tài người trí thức là Nam Cao đang tự bộc bạch chính mình, cho nên cùng dễ viết cho hay. Tuy nhiên, nếu chỉ viết về mình mà để viết và viết dễ hay thì hẳn đã có nhiều trang văn nổi trội. Ở đây, Nam Cao đang viết về mình, về hiện thực của giới mình với tất cả tình cảnh nghèo khó và đau đớn. Đặc biệt, nhà văn đi sâu vào những bi kịch tinh thần của họ, qua đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi đề tài ban đầu. Hơn thế nữa viết về hiện thực của bản thân mình, của giới mình mà viết cho hay thì thật là không dễ. Con người ta chẳng ai muốn tự vạch ra cái xấu của mình, cũng chẳng ai muốn người khác nói đến cái xấu của mình. Thế nên, để viết cho hay, Nam Cao cần chân thực, và để chân thực, trước hết bản thân ông phải luôn luôn trăn trở, giày vò giữa sống và viết, phải là người hiểu được những biến thái tinh vi giằng co, dai dẳng trong tâm hồn con người đang ở trạng thái ăn năn để hướng tới cái tốt đẹp, cái hoàn thiện và cũng phải là người có tài năng phi thường, có lòng trung thực vô ngần mới diễn tả được một cách xuất sắc tất cả những điều đó.

Từ ngẩng lên nhìn Hộ ba lân. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đọc chăm chú quá... Từ thấy sợ. Đời thừa của Nam Cao đã mở đầu như thế. Một cách mở đầu không nhẹ, không thơ mà ngập ngừng ẩn chứa những điều sẽ xảy đến tiếp sau. Hộ là một trí thức, và lại là một nhà văn. Cách lựa chọn nghề nghiệp cho nhân vật của Nam Cao cũng thật lạ, nhưng hẳn không phải là ngẫu nhiên. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Minh Châu đã nói về Nam Cao khi viết về người trí thức là càng nọc mình ra trên trang giấy để mà hành hạ, đày ải, giày vò. Cho nên, văn Nam Cao đâu còn là văn nữa mà nó là tiếng kêu, tiếng rên của một tâm hồn bị cào xé. Nó là tâm, là huyết, là máu lệ hóa thân thành chữ nghĩa (Chu Văn Sơn).

Hộ là một nhà văn! Cũng như Điền trong Trăng sáng, Hộ có một phần là hiện thân của Nam Cao, là người đưa ra những tuyên ngôn nghệ thuật về nghề văn của người cha khai sinh ra Hộ. Tuy nhiên, không chỉ có thế ngòi bút tỉnh táo, sắc lạnh của Nam Cao còn phản ánh những vật vã, quằn quại của một con người trong cuộc sống hàng ngày, là tấn bi kịch tinh thần có thể huy hoại cả những đời người, đánh hỏng cả những nhân cách vốn trong trẻo, cao khiết. Bi kịch của Đời thừa, của Hộ cũng như những người trí thức chính là tấn bi kịch ấy. Hộ cứ bị giết chết những ước mơ đẹp nhất, cứ bị hủy diệt dần những tâm hồn tốt nhất. Bi kịch xảy ra với Hộ do vậy, không chỉ đơn thuần là bi kịch của một nhà văn mà cao hơn đó là bi kịch của một con người, bi kịch ấy cùng sóng đôi trong tâm hồn người nghệ sĩ để Hộ phải sống một cuộc Đời thừa.

Bi kịch tinh thần đầu tiên xảy đến với Hộ là bi kịch của một nhà văn. Trước kia, Hộ là một ngòi bút kiêu hãnh đặt nghệ thuật cao hơn tất cả, dám xả thân cho lí tưởng có ý chí, có hoài bão lớn về văn nghiệp và coi sáng tạo là nhân cách của người cầm bút. Nghĩa là một nghệ sĩ có quan niệm khắt khe về nghề nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí lớn về nghề nghiệp và tâm huyết với đời. Đó là thời kì Hộ đang bay bổng trên đôi cánh của khát vọng tới những viễn tưởng đầy hứa hẹn. Ấy là khi Hộ mới chỉ viết chứ chưa thực sống. Giờ đây khi ghép mình vào đời Từ, phải gánh cả một gia đình, cuộc sống cơm áo vắt kiệt, đã làm tiêu tan bút lực của Hộ. Hộ đã từng coi thường đồng tiền, khinh những lo lắng tủn mủn, tẹp nhẹp về vật chất, giờ đây đồng tiền đang làm Hộ khốn đốn, đồng tiền đã biến Hộ thành tù nhân, thành nạn nhân từ lúc nào. Muốn nuôi sống vợ con Hộ cần phải có tiền. Muốn có tiền Hộ cần phải viết - viết nhiều, viết nhanh và viết ẩu. Đây có thế coi là cái mốc đầu tiên đánh dấu bi kịch của Hộ, là nguyên nhân khiến Hộ tự xỉ vả mình. Văn chương vốn được Hộ xem như cáo Đạo thiêng liêng của kẻ viết thì giờ đây chính Hộ lại biến nó thành cái cần câu cơm. Sáng tạo được xem là tư cách thiêng liêng của người nghệ sĩ thì giờ đây đã bị lối viết lần hồi kiếm ăn biến thành trò khéo tay, quen tay tầm thường. Hộ đã từng coi khinh những tác phẩm viết một cái gì rất nhẹ, rất nông để người đọc quên ngay sau đó, thế nhưng giờ đây chính Hộ lại đang làm ra những tác phẩm như thế. Hộ đang trở thành chính những gì mà anh căm ghét, lên án, ghê tởm. Hộ đang chà đạp lên những gì mình đã tôn thờ. Hộ coi mình là một kẻ đê tiện bởi: Sự cẩu thả trong bất kì nghề nào cũng là bất lương rồi nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Hộ thấy mình là một. kẻ vô ích, một người thừa. Anh tự ăn năn, buồn chán và cảm thấy nhục nhã ê chề khi chính mình đã phản lại nguyên tắc và lương tâm của một người cầm bút. Giả sử Hộ không ăn năn, giả sử Hộ coi chuyện đó là bình thường và tìm ra lí do để li giải cho hành động đó của mình là vì gia đình thì hẳn lương tâm Hộ đã không bị cắn rứt và Hộ cũng không rơi vào bi kịch. Người ta chỉ sa vào bi kịch khi ý thức được về bi kịch của mình. Và Hộ là một nhà văn chân chính, một nhà văn trẻ tuổi có lí tưởng không ăn năn, không rơi vào bi kịch thì bản thân tác phẩm của Nam Cao cũng không có giá trị và ý nghĩa cho đến hôm nay.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì bút lực của Nam Cao cũng chưa có gì đáng bàn và bi kịch nghề văn của người trí thức cũng chỉ là những điều vốn dĩ đã quen. Cái độc đáo và khác biệt của Nam Cao khi viết về tấn bi kịch tinh thần của người trí thức là ở chỗ ông đã cho người đọc thấy được bộ mặt tinh thần của người trí thức từ mọi góc cạnh của đời sống, bởi trước khi là một nhà văn, nhà nghệ sĩ họ phải là những con người. Mà không phải con người đóng khung, tĩnh tại mà là con người trong đời sống đa dạng, phức tạp đầy mâu thuẫn. Phải chăng, đó chính là nguồn gốc xuất phát điểm để cuộc vật lộn không nhân nhượng giữa cái tốt và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn: lòng vị tha, cao thượng và sự vị kí.... Luôn luôn giằng co trong tâm thức của người nghệ sĩ và ở Đời thừa là của Hộ.

Để thoát khỏi bi kịch thứ nhất, bi kịch của một nhà văn Hộ đã tìm ra cứu cánh đó là sự hi sinh. Hi sinh vì vợ con, vì gia đình, và đó là niềm an ủi. Nêu Hộ quyết tâm đi theo lí tưởng để được là một nhà văn thì Hộ sẽ phải từ bỏ gia đình. Như thế Hộ sẽ không còn là một con người. Hi sinh lí tưởng vì gia đình, Hộ không còn là một nhà văn như Hộ trước kia, thế nhưng ít ra Hộ vẫn còn là một con người, con người với lẽ sống tình thương. Anh đã từng phản bác lại quan điểm của một triết gia phương Tây nào đó cho rằng Kẻ mạnh là kẻ giẫm đạp lên đôi vai của người khác và phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ. Hộ cho rằng Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm đạp lên đôi vai của kẻ khác mà kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của chính mình. Thì chính Hộ đã thực hiện theo nguyên tắc ấy khi Hộ đưa tay ra cứu vớt cuộc đời Từ. Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi, bản thân Từ không chỉ yêu Hộ mà còn có cả sự biết ơn, lòng trung thành vì Hộ đã cưu mang mẹ con Từ giữa lúc Từ không còn thiết sống. Hành động ấy của Hộ đã cho thấy bản thân Hộ đã thực hiện theo đúng nguyên tắc tình thương của mình và giờ khi Hộ quyết định hi sinh lí tưởng cho gia đình cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng, khi lựa chọn tình thương gia đình Hộ lại rơi vào bi kịch thứ hai, bi kịch của một con người. Và lần này, cả hai bi kịch cùng sóng đôi trong tâm hồn Hộ đã được Nam Cao lách ngòi bút vào một nơi rất sâu, diễn tả rất tinh và rất trúng.

Hộ những tưởng hi sinh lí tưởng vì gia đình thì anh sẽ được sống yên thân và ổn định. Nào ngờ, nghiệp văn chương không tha cho Hộ. Nó cứ đeo đẳng và sống dậy trong anh bất cứ lúc nào khi có thời cơ, khiến Hộ vi phạm cả vào lẽ sông tình thương của mình. Tôi chợt nhớ đến câu nói của Xan-tư-kốp Xê-đun khi ông khẳng định: Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Có lẽ, vì vậy mà cũng dễ hiểu khi lí tưởng văn chương không tha cho Hộ. Ấy là khi gặp một bạn văn chương hay nghe tin về sự thành đạt của một đồng nghiệp. Cái mặc cảm sống vô ích, sống thừa, mặc cảm thua kém đã hành hạ Hộ một cách đau đớn. Hộ thấy ân hận, sầu đời. Ban đầu Hộ tìm đến rượu. Nhưng rượu không cứu rỗi được tâm hồn Hộ mà nó dần dần phá phách, hủy hoại tâm hồn Anh, Từ một ông Thánh nhân từ, đề cao lẽ sống tình thương Hộ đã trở thành một kẻ thô bạo và tàn nhẫn. Cơn giận của lí tưởng không được thực hiện đã bị Hộ mù quáng trút xuống đầu vợ con - những người mà chính Hộ đã nâng đỡ lên bằng tình yêu thương của mình. Và theo cái đà ấy, Hộ đã trở thành một kẻ tồi tệ, khốn nạn, một tên Chí Phèo tri thức chỉ biết chửi mắng và ăn vạ. Nhưng Hộ sa vào bi kịch cũng chính vì lẽ trong tâm hồn anh, cái phần người của lẽ sống tình thương vẫn còn tồn tại. Nó chỉ bị men rượu che khuất đi chứ không hề bị tiêu diệt. Chính vì vậy mà Hộ đã nhìn ra được tất cả sự thảm hại của con người mình.

Hộ khóc. Tiếng khóc của Hộ ở cuối tác phẩm là một sự thức tỉnh. Hộ đã khóc một cách cay đắng và chua xót. Khóc một cách bất lực và tuyệt vọng. Khóc khi nhận ra con người thực của chính mình đã rơi vào bi kịch ra sao. Lương tâm của Hộ đã trừng phạt anh một cách không khoan nhượng, không buông tha. Hộ nghẹn ngào: Anh... anh... chỉ là ... một thằng... khốn nạn. Có thể nói Nam Cao rất tỉnh táo khi viết và ông còn tỉnh táo hơn khi để cho nhân vật của mình khóc. Ai đó đã từng nói Nước mắt là một miếng kính biến hình vũ trụ. Và quả thực như vậy. Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh sau bao nhiêu năm say, lòng mơ hồ buồn đã rưng rưng nước mắt. Giờ đến Hộ Người trí thức - nhà văn - con người ấy đã khóc khi nhận ra sự thảm hại của cuộc đời mình. Nam Cao đã để cho Từ nói với chồng: Không!... Anh chỉ là một người khổ sở. Đó cũng là lời bào chữa của Nam Cao bởi khổ sở đã biến con người thành khốn nạn.

Nam Cao kết thúc thiên truyện bàng tiếng ru ai oán. Thực chất, đó cũng là lời chất vấn xã hội. Ông lên tiếng kết án một xã hội thù địch với khát khao vươn lên, hoàn thiện của con người. Một xã hội không vun xới cho những ước mơ cao đẹp, không vun trồng cho những tâm tính tốt đẹp mà chí đánh hỏng những đời người, thì đó là một xã hội phi nhân tính. Hẳn cũng không phải là ngẫu nhiên khi Nam Cao đặt tên cho tác phẩm của mình là Đời thừa. Đó là những con người, những cuộc đời thừa, những tâm hồn đang bị giày xéo bởi những bi kịch không tìm được lối ra.

Viết về người trí thức có lẽ đương thời không ai viết được thành công như Nam Cao. Người đời đã dành tặng cho Nam Cao nhiều danh hiệu, nhiều mĩ từ, mĩ cảm khi đọc văn chương của ông. Song, tôi biết có một điều chắc chắn nhất là ông đã sống và viết theo đúng nguyên tắc của mình. Cuộc đời và văn phong của ông vì thế sẽ không bao giờ là cuộc đời thừa cả. Và như thế, Nam Cao cùng văn phẩm của ông mãi mãi sống trong lòng bạn đọc mọi thời đại.


Cùng chủ đề:

Bàn về sự nghiệp sáng tác của tác gia Xuân Diệu, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Nhìn một cách … trần thế nhất”. Phân tích một số bài thơ của Xuân Diệu viết trước cách mạng, anh (chị)
Bàn về thơ Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định: Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống
Bàn về thơ Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định: “Thơ Xuân Diệu … tha thiết”. Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên đây thông qua sự hiểu biết về thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám
Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba - 1442
Bên cạnh chất hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn đậm đà chất lãng mạn. Anh (chị) hãy dựa vào tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam để làm sáng tỏ vấn đề này
Bi kịch tinh thần của người tri thức trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao
Binh giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Bình bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) của Nguyễn Khuyến
Bình giảng Tràng giang của Huy Cận
Bình giảng bài Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh để làm nổi bật vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ - Lớp 11
Bình giảng bài Ngóng gió đông của Nguyễn Đình Chiểu