Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương (bài 2) — Không quảng cáo

Văn mẫu 9 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý, thuyết minh, tự sự và nghị luận lớp 9 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Nói với con


Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương (bài 2).

Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta. Cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con. Đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói, cha dặn. Y Phương đã tạo nên một không khí gia đình ấm áp tình cha con.

Y Phương, người con của dân tộc Tày là tác giả bài thơ “Nói với con". Nhan đề bài thơ rất bình dị, lời thơ và chất thơ rất hồn nhiên.

Hai mươi tám câu thơ tự do, câu ngắn nhất chỉ có hai chữ, câu thơ dài nhất là mười chữ, phần nhiều là những câu thơ bốn chữ năm chữ; lại có câu thơ cất lên như một khẩu ngữ, nhưng rất gợi rất đậm đà vì thấm đẫm tình cha, vì cách biểu cảm chân tình, mộc mạc.

Tràn ngập những vần thơ là tình thương con, là niềm tự hào đối với quê hương xứ sở. Các câu thơ:

"Người đồng mình yêu lắm con ơi ”

‘‘Người đồng mình thương lắm con ơi ”

“ Người đồng mình thô sơ da thịt”

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương ”

đứng chốt ở bốn trọng điểm, như những luyến láy, những điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt.

Tôi đã sinh ra và lớn lên ở đôi bờ con sông Hương thơ mộng, thuở tấm bé đã được uống vào lòng những lời thiết tha, dịu ngọt: bà con mình, chị em mình, anh em mình... của má tôi, của chị gái tôi, của bè bạn tôi. Rồi những năm dài chiến tranh trên những nẻo đường hành quân, tôi đã xúc động khi chợt nghe một tiếng ru buồn, dìu dịu cất lên từ một mái nhà tranh nơi xóm vắng xa lạ: ... Nàng về nuôi cái cùng con- Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”... Và khi đọc thơ Y Phương, ba tiếng "người đồng mình ” đã vương vấn tâm hồn tôi bao bâng khuâng man mác. Tôi bồi hồi nhớ về tuổi thơ, nhớ giọng nói dịu hiền của má tôi, nhớ về xứ Huế, và thật kì lạ, tôi bâng khuâng nghĩ về Cao Bằng, nơi "gạo trắng nước trong ", nơi mà tôi chưa hề một lần đi tới. Thơ có hồn, có hay mới gợi nhớ gợi thương như thế. “Người đồng mình ” đã kết tụ bao tình yêu thương, tự hào của Y Phương đối với “nước non Cao Bằng", nơi chôn nhau cắt rốn nặng tình nặng nghĩa của mình.

Hãy khẽ ngâm lên những vần thơ của anh:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Ta tưởng như đang được ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói. Lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Điệp ngữ "bước tới ” và động từ “chạm " dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi "!- Sao không yêu? Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!

"Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”

Nhà văn Nguyễn Tuân từng ca ngợi ông lái đò sông Đà có "bàn tay hái ra hoa”. Một nhà thơ nọ, trước vẻ đẹp yêu kiều của cô văn công đã thốt lên: “mười nụ hoa trắng ngần thơm ngát bàn tay em". Chữ "hoa”, chữ “ hát”, chữ “tấm lòng” trong thơ Y Phương cũng rất ý vị. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan trúc, nan tre đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà được ken bằng "câu hát”. Rừng đâu chỉ cho nhiều gỗ quý, cho măng, cho lâm sản quý giá mà còn “cho hoa". Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn “cho những tấm lòng”  nhân hậu bao dung, con đường tình nghĩa:

Gập ghềnh xuống biển lên non,

Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng ?

(Ca dao)

Với Y Phương, con đường mà anh nói với con là hình bóng thân thuộc của quê hương. Đường gần là con đường làng bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối... Là con đường đi học, con đường làm ăn. Đường xa, là đường đi tới mọi chân trời, đến mọi miền đất nước. Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương nói lên một cách hàm súc, giản dị:

“Con đường cho những tấm lòng”

Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà , nhà thơ nghĩ về cội nguồn hạnh phúc:

"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ”

“Người đồng mình” không chỉ cần cù và khéo léo, tình nghĩa và tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, đáng "thương lắm con”. Trong bao gian khổ khó khăn thử thách, bao niềm vui nỗi buồn cuộc đời, trải dài theo năm tháng, bà con quê hương mình, “người đồng mình” đã rèn luyện, đã hun đúc chí khí, đã “cao đo nỗi buồn

xa nuôi chí lớn ”, nâng cao tâm thế đẹp. Câu thơ bốn chữ, đăng đối như tục ngữ, đúc kết, một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý. Các từ ngữ: “cao đo ”, "xa nuôi”  đã thể hiện một bản lĩnh sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam.

Nếu người Kinh dùng lối nói: ''ăn chắc mặc bền, chém to kho mặn, chân đất lưng trần, niêu cơm quả cà, mần răng nói rứa... ”, để phản ánh bản chất giản dị, mộc mạc của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, thì Y Phương cũng dùng cách nói cụ thể, hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày như: “thô sơ da thịt ”, “chẳng mấy ai nhỏ bé", “tự đục đá kê cao quê hương”  để khẳng định và ngợi ca tinh thần “cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị chất phác thật thà, không hề nhỏ bé” tầm thường trước thiên hạ. Nếp sống tốt đẹp ấy đã tạo nên chất thơ trong sáng đáng yêu của Y Phương. Bản chất dân tộc, tinh thần nhân văn đã hoà quyện vào hồn thơ thi sĩ:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự dục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Cha nói thế với con cũng là khuyên con bài học đạo lí làm người. Quê hương sau những năm dài chiến tranh, chưa giàu chưa đẹp, con phải biết gắn bó với quê hương. Trước thử thách khó khăn, con không được sống tầm thường, sống hèn kém, sống “nhỏ bé’. Phải lao động sáng tạo để xây dựng, để “kê cao" quê hương:

"Dù sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc "...

Nhuyễn vào lời thơ là những ẩn dụ so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ "sống" ba lần vang lên đã khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng điều mà cha “vẫn muốn ”, cha mong con, hi vọng ở con. Lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thìa.

Lời cuối "nói với con” càng trở nên tha thiết. Cha nhắn con khi “lên đường ” không bao giờ được sống tầm thường, sống “ nhỏ bé" trước thiên hạ. Phải biết giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của "người lao động”. Hai tiếng "nghe con ” là cả một tấm lòng cha bao la:

"Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”.

Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta. Cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con. Đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói, cha dặn. Y Phương đã tạo nên một không khí gia đình ấm áp tình cha con.

Y Phương là một người cha rất thương con. Anh là một người tình nghĩa chung thuỷ với quê hương. Thơ anh rất hồn hậu và đậm đà.

Y Phương là người đồng hương với Kim Đồng. Quê hương anh có hang Pác Bó, nơi mà hơn 60 năm về trước, Bác Hồ đã sống và hoạt động giữa lòng dân để nhóm lửa cách mạng.

Bạn đọc yêu quý gần xa có nhớ, có biết bài dân ca:

“Nàng về giã gạo ba giăng

Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm

Nước Cao Bằng ngâm thì trong gạo... "

Theo tôi nghĩ, bài thơ “Nói với con” của Y Phương là một gáo nước Cao Bằng đấy, có thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta.


Cùng chủ đề:

Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt để cho thấy tình yêu quê hương đất nước
Bình giảng bài thơ Con cò của thi sĩ Chế Lan Viên
Bình giảng bài thơ Mây và sóng của hào Ta - Go
Bình giảng bài thơ Mây và sóng của đại thi hào Ta - Go
Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương
Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương (bài 2)
Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương (bài 3)
Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương. Ngữ văn lớp 9
Bình giảng bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
Bình giảng bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Ngữ văn lớp 9
Bình giảng bốn khổ thơ đầu bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Ngữ văn lớp 9