Bình giảng khổ cuối bài Tương tư của Nguyễn Bính — Không quảng cáo

Văn mẫu 11 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 11 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tương tư


Bình giảng khổ cuối bài Tương tư của Nguyễn Bính.

Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả đã vận dụng sáng tạo các chất liệu văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khát khao tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê.

"Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhà thôn Đông,

Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?".

"Nắng mưa là bệnh cửa giời - Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"... Đó là thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong "Thi nhân Việt Nam" cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi hai mươi đã làm gần một nghìn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều thể thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát, ở những bài thơ ấy, "ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta", ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là "hồn xưa của đất nước".

Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao... Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi:

"Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhà thôn Đông,

Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?".

Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ "Tương tư", rút trong tập thơ "Lỡ bước sang ngang" (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm có 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tôi hờn: "Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?"... Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.

Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ước ao khao khát. Từ chỗ gọi "nàng": "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" đã chuyển thành một tiếng "em” gần gũi, thân thiết yêu thương: "Nhà em có một giàn trầu... ". Cách xưng hô từ "tôi" - "nàng" dẫn đến "em" - "anh" thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.

Giầu với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:

"Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng."

Điệp ngữ "nhà... cố một" làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng "hai thôn chung lại một làng", chẳng xa xôi mấy, nhưng "giàn giầu" nhà em và "hàng cau liên phòng" của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ "có một" chưa chưa có đôi. Chữ một trong hai câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu - cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.

Trong bài "Tương tư", Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư "mãi chẳng ra":

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ bến mới gặp đò ?

Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:

"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhờ giầu không thôn nào?"

Cả một trời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông". Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"  Một lối nói nhỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cũng là thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với câu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một ước mơ hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.

Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả đã vận dụng sáng tạo các chất liệu văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khát khao tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. "Tương tư" thấm một nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng...


Cùng chủ đề:

Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử - Lớp 11
Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Bình giảng bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu - Ngữ Văn 12
Bình giảng bốn câu cuối bài thơ Tương tư của thi sĩ Nguyễn Bính
Bình giảng bốn câu kết trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Bình giảng khổ cuối bài Tương tư của Nguyễn Bính
Bình giảng khổ thơ kết thúc bài Tràng giang của Huy Cận: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Bình giảng khổ thơ sau trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử: Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay; Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?
Bình giảng khổ thơ sau đây trong bài Đây mùa thu tới: Rặng liễu. . . Dệt lá vàng
Bình giảng khổ thơ sau: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ diền? (Đây thôn Vĩ Dạ - HÀN MẶC TỬ)