Nhân vật người yêu làng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Có thế nói, linh hồn của truyện ngắn Làng là nhân vật ông Hai. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân đã đưa vào văn học một bức chân dung sống động, đẹp, một vẻ đẹp riêng về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến...
Người ta đã viết rất nhiều về cái làng Việt Nam xưa kia, từ kho tàng đồ sộ ca dao tục ngữ, những khảo cứu phong tục, tập quán, những phóng sự việc làm... cho đến những tiểu thuyết mà cái làng gói trọn số phận của nhiều nhân vật. Làng, đó khộng phải chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí, mà đó là tất cả cuộc sống xã hội đối với người nông dân xưa, ở đó có tất cả những gì gắn bó với họ, làm nên cuộc đời họ... Làng, đó là khái niệm đầu tiên và có lẽ cuối cùng của họ về hai tiếng “quê hương”.
Nhưng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, có thể thấy rõ làng chỉ là một cái cớ, một cái nền làm nổi rõ một nhân vật, một “người làng” đó là nhân vật ông Hai. Bởi vì câu truyện không xảy ra trên đất của làng đã đành, mà trong suốt cả truyện không có một câu văn nào, một dòng chữ nào miêu tả cái làng Chợ Dầu ấy cả. Người- ta chỉ biết về cái làng Chợ Dầu qua lời kể của ông Hai, qua lời người đàn bà tản cư, qua những lời đồn của dân làng đi tản cư, qua lời của người đàn bà chủ nhà... Nhưng nhiều nhất là qua những câu chuyện và những nỗi niềm ôm tưởng nhớ của ông Hai, qua tình yêu lạ lùng của ông đối với tất cả những gì thuộc về làng ông.
Nhân vật ông Hai lại không phải là một nhân vật tiêu biểu gì trong cái làng có lẽ cũng rất bình thường như bất kì làng quê nào từ miền đất Việt.
Ông không thuộc hàng cung đình mà số phận có thể tiêu biểu như một người nông dân một thời như anh Pha, chị Dậu; cũng không thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân hay làm, chịu khó và có lẽ khéo tay nữa. Nhưng ông khóng phải là người nông dân hiền lành, ăn no vác nặng, kiểu người mà tầm mát và suy nghĩ suốt đời không vượt khỏi luỹ tre làng. Ông Hai vui tính và hay chuyện nữa, và tinh khôn láu lỉnh, cái tinh khôn láu lỉnh của người nông dân đã đi đây đi đó, đã tiếp xúc nhiều. Cái buồn cười đáng mến của ông già cái gì - cũng - biết: “rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu”, cảnh mà ông đi “nghe đọc báo - ông khổ tâm hết sức nhưng không muốn ai biết mình đọc còn quá kém - “Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Chỉ một cảnh ông già nông dân nghe anh dân quân hình như mới đọc, đánh vần được chữ nào đọc luôn chữ ấy, ngòi bút kể chuyện của Kim Lân đã dựng nên rõ rệt cái không khí kháng chiến của một thời. Ông bàn những chuyện “quốc gia đại sự’, như để Đác-giãng li-ơ đi đi về về là sự sai khiến của ông. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế khác, ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế kia...” thật say sưa, sảng khoái và hưng phấn, mặc dù chính ông vẫn biết là “học lỏm cả đấy thôi”, nhưng vẫn thích thú tự hào.
Chỉ bằng vài ba nét miêu tả, tác giả Kim Lân đã tái hiện được chân dung một mẫu người lí thú, rất thật, rất sống động, rất thường gặp ở xung quanh ta. Tính cách của ông Hai bộc lộ ngay qua lời nói, cử chỉ, mà ta có cảm tưởng như dễ dàng biết hết cả: những con người như vậy làm sao chịu được cảnh tù túng trong gian nhà tản cư ở nhờ ở đậu, trong ánh sáng chập chờn của ánh đèn dầu, trong tiếng lầm nhầm tính loán của món tiền nhặt nhạnh hàng ngày của vợ... Ông phải đi tìm người nói chuyện, và câu chuyện thường là một điều tự nhiên trong tính cách của con người hay chuyện, ưa giao tiếp, thích hiểu biết, cái hiểu biết do học lỏm của người nghèo. Như đã nói đối với người nông dân, cái làng là tất cả và ông Hai thích khoe làng, khoe tất cả những cái gì “hơn người” ở làng ông, bởi cái làng chính là ông, là những gì tốt đẹp nhất của ông. Những nhận thức chính trị của người nông dân này tuy đơn giản mà dứt khoát và rạch ròi: Trước đây ông mê man ca ngợi cái làng của viên Tổng đốc người làng, đến lúc thấy thù, thấy khổ vì nó, ông lại khoe những gì ngược lại: thế giới của ông. Ông đi nghe những ngày tổng khởi nghĩa, những ngày kháng chiến... vẫn là cái làng ấy, nhưng bây giờ là cái làng “của ta”, của ông và những người như ông.
Bây giờ trong lúc xa làng, trong cái cuộc sống chật hẹp tù túng này, cái làng càng trở nên đẹp đẽ. Những điều mà ông vẫn nói về làng trong lúc khoe hẳn có tô vẽ lên thêm bây giờ trở thành niềm tin, sự say mê, thành ước vọng của ông. Tối này sang tối khác, ông nói về làng, “làm như bác Thứ (ông hàng xóm) cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy bằng những lời đối thoại trách móc ông hàng xóm lãng ý không nghe chuyện, nhưng thực ra, ông Hai đâu có cần điều ấy lắm, ông nói cho chính mình, cho thỏa nỗi nhớ, nỗi ao ước cúa mình. Tình hơn khi miêu tả cuộc sống của “ba bốn nếp tản cư” trong những gia đình chủ nhà tinh quái như mụ chủ nhà ông Hai. Nhân vật mụ chủ này phảng phất sự tham lam tai ác của những nhân vật đàn bà nông thôn trước Cách mạng tháng Tám trong truyện ngắn của Nam Cao. Những người đàn bà xấu xí quá quắt mà không biết là mình ác. Tác giả vẽ hơi kĩ về mụ, là để viền một nét tương phản vào hình ảnh ông Hai. Ông dễ tính, xởi lởi nhưng không thể chấp nhận, con người đẹp trong ông tương phản gay gắt với những gì bình thường, tối tăm đến ti tiện với mụ chủ. Ông ghét lây cả người chồng hiền lành của mụ vì lẽ anh ta không biết “dạy” vợ. Khổ nhất cho ông Hai là phải bó mình trong gian nhà chật hẹp, lo đối phó với người đàn bà quá quắt như người đàn bà này. Vì thế, có dịp là ông bỏ nhà đi ngay, phó mặc mọi sự cho con, dù vẫn biết để dặn con: “Nó thì rút ruột ra...”.
Phút giây sảng khoái, sung sướng nhất của ông Hai có lẽ là buổi trưa hôm ấy, lúc ông phóng bước trên con đường làng “Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói lừ đừ... Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng...” ông thoát ra ngoài sự tù túng, lao vào thế giới của ông. ông đi nghe tin tức, ông phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến, ông vui cả với cái nắng chang chang để cho “Tây nó ngồi trong vị trí giờ này bằng ngồi tù” - “Ruột gan ông cứ múa cả lên...”. Đúng lúc ấy, cái tin sét đánh về làng ông đưa đến. Tin dữ không phải là cái làng đẹp đẽ ấy bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng đất, mồ mả ông cha của ông bị mất, mà cả làng chúng nó Việt gian theo Tây...”. Tội nghiệp ông già vui tính, hay chuyện, mong ngóng chờ từng tin tức của làng, lúc này phải “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác” rồi “cúi gằm mặt đi thẳng”, “cổ ông lão nghẹn đắng cả lại, da mặt tê rân rân... Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Cơ sự ấy về làng ông có lẽ ông chưa bao giờ tưởng tượng, cũng như nỗi đau nỗi nhục đang đến trong ông có lẽ chưa từng biết. Phải chăng đến lúc này, lần đầu tiên ông mới phải dùng lí trí để suy nghĩ về cái làng của ông, mới phải trăn trở về tình yêu làng trong ông. Cái làng bây giờ không phải chỉ là thôn ngõ xóm, những hào những ụ giao thông, những ao làng những giếng làng xây đá ong, đường gạch đi không lấm chân... những cái hơn người mà ông từng khoe nữa. Làng bây giờ là một cái gì lớn hơn, là danh dự, là chỗ đứng, là cái lẽ để làm người. Ông xót xa cho những đứa con: “Nước mắt ông lão ứa ra... chúng nó cũng là Việt gian đấy ư?”, “Chao ơi Cực nhục chưa! Cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán với? Suốt cả cái nước Việt Nam này, người ta ghê tởm thù hằn cái giống Việt gian bán nước...” Làng, bây giờ trong ý thức ông Hai, gắn liền với nước, với kháng chiến.
Mà không phải riêng ông Hai. Đó là nhận thức của người dân lúc bấy giờ ở vùng tự do cũng như vùng tạm chiến, từ người đàn bà tản cư vô tình đem tin đến, từ mụ chủ nhà với cái lệnh mơ hồ: “đuổi hết những người làng Chợ Dầu không cho ở nữa” - có lẽ cái lệnh ấy là hiển thị thái độ hơi cực đoan lúc bấy giờ. Câu chuyện thắt thêm một cái nút vào nỗi khổ tâm đau đớn của ông Hai. “Biết đem nhau đi đâu bây giờ?”. Trong lúc đen tối đó, ông Hai vẫn không mất sáng suốt, ông vần tin rằng sẽ có chỗ để ở. Đó “vì chính sách cụ Hồ người ta chẳng đuổi”, nhưng dẫu như thế thì vẫn chẳng còn mặt mũi nào mà đi tới đâu...”
Đọc đến đây, ta có thế thấy mình hình như chưa hiểu hết về con người cũng như dễ hiểu tất cả khi vừa gặp mặt, con người giản đơn bộc trực là ông Hai ấy. Hay là chính ông, ông cũng chưa hiểu hết mình? Tình yêu làng bắt đầu từ tính hay khoe làng, vui chuyện, như một thói quen, một thích thú, đến nỗi nhớ làng, như đó là tất cả những gì đẹp đẽ thân thiết nhất của quê hương, của một cuộc sống đẹp đẽ đối lập với cảnh tản cư khổ sở chật hẹp - lúc này đã trở thành nhận thức Cách mạng: “về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây rồi về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Và tình yêu làng trong ông bây giờ mới thực sự là một tình yêu có ý thức: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”... Thật cảm động, cái cảnh ông Hai chỉ biết thủ thỉ cùng con - đứa con cũng rất đáng yêu - câu chuyện của hai cha con cứ như là một sự giải tỏa những nỗi niềm đau khổ trong ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ ở trên đầu trên cổ xoi xét bố con ông...”
Người đọc bị cuốn vào mạch tâm tư của ông Hai, vào nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật quá tự nhiên, quá tài tình, vào duyên kể chuyện của tác giả mà quên đi cái cách “gỡ nút” câu chuyện quá giản đơn tưởng như vô lí. Làm sao mà cái ông chủ tịch lại biết được tình cảnh của ông Hai, của làng Chợ Dầu - nơi tản cư xa xôi mà xuất hiện đúng lúc thế? Có thể vì những sự tình cờ không thiếu trong kháng chiến, nhưng cái chính là người ta bị thuyết phục, bởi cũng như ông Hai, không ai tin cái điều đồn đại về làng ông kia. Chỉ một vài lời của ông chủ tịch là như có phép hồi sinh, ông Hai trở lại là ông Hai xưa kia. Có lẽ trên đời chưa có ai khoe cái việc “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn” một cách hả hê, sung sướng như ông. Trong sự cháy rụi của nhà ông, là sự hồi sinh của một làng khác: làng Chợ Dầu kháng chiến... Ai cũng mừng cho ông lão kể cả mụ chủ nhà tinh quái. Không những ông Hai mà có lẽ cả người ít ngờ về thái độ vui mừng dễ dãi của mụ. Nhưng nghĩ kĩ lại không bất ngờ, vì người đàn bà ấy cũng là người dân Việt Nam độc lập sống trong không khí của Cách mạng. Kim Lân thật la tài khi chỉ bằng vài nét chấm phá đã cho ta thấy thế nào là cuộc kháng chiến toàn dân.
Có thế nói, linh hồn của truyện ngắn Làng là nhân vật ông Hai. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân đã đưa vào văn học một bức chân dung sống động, đẹp, một vẻ đẹp riêng về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến, những con người bình thường mà những gì tốt đẹp của họ - lòng yêu làng, yêu nước được khơi dậy và hoàn thiện để ngày càng đẹp đẽ. Bằng sự hiểu biết sâu sắc về người nông dân là cuộc sống nông thôn, với tấm lòng trân trọng yêu mến họ, Kim Lân đã có những tác phẩm độc đáo và đặc sắc về nông thôn và người nông dân (trong đó không thể không kể đến Làng). Điều này đã giúp ông trở thành một trong những nhà văn viết không nhiều nhưng được yêu mến rất nhiều ở nước ta.