Phân tích khổ 1 bài thơ Tây Tiến - Văn mẫu 10 CTST — Không quảng cáo

Văn mẫu 10 Chân trời sáng tạo - Nghị luận xã hội, nghị luận văn học lớp 10 CTST Bài 6: Nâng niu kỉ niệm (Thơ) - Văn mẫu 10 Chân trời sá


Phân tích khổ 1 bài thơ Tây Tiến

“Tây Tiến” của Quang Dũng có thể coi là một bông hoa tươi nhất trong chùm thơ viết về Bác Hồ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Mẫu 1

Lời giải chi tiết:

“Tây Tiến” của Quang Dũng có thể coi là một bông hoa tươi nhất trong chùm thơ viết về Bác Hồ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã tạo được sức sống vô cùng mạnh mẽ, bền bỉ trong lòng người đọc ngay từ khi nó ra đời. Sức sống ấy là nhờ ngòi bút của Quang Dũng được khơi dậy từ cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn khi khắc họa hình tượng người lính vệ quốc như một khúc ca bi tráng vang lên giữa một bản anh hùng ca hào hùng của cả dân tộc trong những năm giữ nước. Hình ảnh người lính với sự đan xen giữa màu sắc hiện thực và lãng mạn đã xuất hiện ngay từ phần đầu của bài thơ, gợi tả vẻ đẹp của những người lính gắn liền với những chặng đường hành quân của họ. Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau tạo nên sự hùng vĩ của bức tranh cuộc sống, sự kỳ vĩ vĩ đại của con người.

“Tây Tiến”, nói đúng ra là nỗi nhớ da diết và tự hào của Quang Dũng về những người đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến, đoàn quân có sứ mệnh từ Hà Nội, Hà Tây tiến thẳng lên Tây Bắc. giải phóng vùng biên giới Việt – Lào, sau đó giúp nước bạn giải phóng thượng Lào, tạo thế an toàn khu cho chiến khu của ta; kể về những năm tháng vô cùng gian khổ nhưng cũng rất hào hùng của đoàn quân Tây Tiến gắn với những vùng đất họ đã đi qua, chiến đấu và chiến thắng. Sau cuộc hành quân dài Tây Tiến, bộ đội được chuyển đổi thành các đơn vị khác. Vì vậy, bài thơ lúc đầu có tựa là “Nhớ Tây Tiến”, sau này đổi thành “Tây Tiến”.

Bài thơ, như một lưu ý cuối cùng, được viết ở Phù Lưu Chanh, một ngôi làng bên bờ sông Đáy. Phải chăng vì thế mà nỗi nhớ Tây Tiến bắt đầu bằng nỗi nhớ về một dòng sông mang âm hưởng rất tha thiết?

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”

Đó là âm vang của hai từ “đi” và từ “ơi” đầy hoài niệm. Nhà thơ dường như để cho tiếng gọi thân thương “Tây Tiến Ơi” vang vọng qua một thời gian khổ nhưng đầy nghĩa tình, đầy hi sinh nhưng cũng đầy hoài niệm, vang vọng đến miền đất xa, vang vọng đến đồng đội. cho dù ở vùng đất xa lạ hay chiến đấu ở các chiến trường khác nhau. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! thấm đẫm biết bao kỉ niệm của Quang Dũng.

Hình ảnh sông Mã mở đầu cho nỗi nhớ Tây Tiến như một lời khẳng định về dư âm hào hùng, bi tráng của “Tháng năm Tây Tiến” không thể nào xóa nhòa trong tâm trí không chỉ của những người lính Tây Tiến mà còn của những người lính khác. người lính Tây Tiến. Sông Mã đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp của đoàn quân Tây Tiến. Và Quang Dũng đã để cho dòng sông Mã ấy nhạt nhòa đi, nhưng vẫn chảy suốt bài thơ, để có lúc nó hiện ra như một thác nước ầm ầm hùng vĩ trong buổi chiều muộn, khi lại tràn về với con thuyền, với “Con đò” đong đưa hoa” và cuối cùng hiện lên trọn vẹn trong khúc bi tráng của nó khi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Và phải chăng sông Mã cũng là dòng sông cảm xúc mà Quang Dũng gửi gắm từ đó? biết bao tự hào, khâm phục và nhớ nhung đồng đội.

14 dòng mở đầu bài thơ là nỗi niềm về người lính Tây Tiến gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ của họ. Thiên nhiên được miêu tả vì thế cũng gắn liền với những cuộc hành quân này. Thiên nhiên và con người như hòa quyện vào nhau, như hòa quyện vào nhau. Hành trình hành quân của những người lính Tây Tiến, 14 dòng thơ như những thước phim tư liệu nhưng đầy giá trị nghệ thuật về cuộc sống và chiến đấu của những người lính Tây Tiến.

Trước hết, Quang Dũng đã tạo ra ở Tây Tiến một thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa huyền bí, vừa thơ mộng vừa khắc nghiệt để làm nổi bật hình ảnh người lính. Bởi vậy, sau câu thơ như một tiếng gọi tha thiết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến! Là hình ảnh cả một vùng núi rừng bao la như nghiêng mình trong ống kính máy ảnh, như chơi vơi trong nỗi nhớ của Quang Dũng”. Không gian hiện hữu của sự vật, đi vào nỗi nhớ của Quang Dũng “chơi vơi” trở thành không gian của những suy nghĩ, cảm xúc. Từ toàn cảnh “chơi vơi” này một hoài niệm, hoài niệm như ống kính máy ảnh tái hiện những chặng đường đã qua của đoàn quân Tây Tiến với những địa danh, không phải không có sự lựa chọn kỳ diệu, gợi nhiều cảm giác hiểm trở, xa xôi như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Những địa danh với độc giả lúc bấy giờ còn huyền bí, hoang sơ, thậm chí cổ kính, khiến Vũ Quần Phương liên tưởng hai chữ “Mường Hịch” nghe như tiếng chân cọp, trong khi hai chữ “Mai Châu” đã ủ sẵn hương nếp rừng, mới biết sức gợi của địa danh có sức lay động trí tưởng tượng của người đọc.

Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến của Quang Dũng cũng rất đặc sắc bởi nó được tạo nên từ ngôn ngữ tượng hình. Miêu tả thiên nhiên, ta thấy được bước chân dũng cảm của đoàn quân Tây Tiến đang đạp bằng mọi gian khổ mà thiên nhiên thử thách, mọi hiểm nguy mà thiên nhiên đe dọa. Ta không chỉ thấy một Sài Khao mờ sương, một Mường Lát hoa trong đêm mà còn thấy những cung đường quanh co, cheo leo.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “

Tuy nhiên, cần thấy rằng thơ Quang Dũng có một đặc điểm rất nổi bật và bao trùm, đó là những hình ảnh tương phản có tác dụng nâng đỡ nhau về mặt cảm xúc. Thế là những cái “sườn”, “khúc”, “sâu”, “hút” đã trở nên vô nghĩa trước sự thử thách của thiên nhiên đối với con người. Vì sau những lần thử thách ấy, tôi chợt thấy lòng kiêu hãnh của một người lính. Quang Dũng đã tạo nên một hình ảnh hết sức bất ngờ từ sự tương phản này, hình ảnh “súng ngửi trời”. Từ hình ảnh ấy, người lính hiện lên rất thực, thật với những người lính xuất thân từ sinh viên, trí thức Hà Nội. Đó là hình ảnh hiện lên trong mắt những người lính trẻ thông minh nhưng tinh nghịch, những người lính đã vượt qua bao dốc cao để vươn tới bầu trời, cho súng ngửi trời. Không phải là người lính như những người lính trong đoàn quân Tây Tiến khó có thể liên tưởng từ “mũi súng” với “súng ngửi trời”.

Nhưng trong câu thơ của Quang Dũng, người lính hồn nhiên và lãng mạn, vừa thực, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng trưng. Thiên nhiên đôi khi hiện lên từ những câu thơ giàu giá trị tượng hình, đỉnh non ngàn thước. Đó là câu thơ:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Nhiều người yêu thích câu thơ này bởi sự ngắt nhịp giữa dòng ngắt câu thơ, tạo nên đỉnh cao nghìn thước. Nhưng thực ra, độ cao ngàn thước ấy được tạo nên từ chính cấu trúc ngữ nghĩa của câu thơ. Nhà thơ đã tạo nên sự tương phản giữa nghìn thước lên và nghìn thước xuống để đứng giữa câu thơ là cả bầu trời của chữ “cao”. Chính cấu trúc ngữ nghĩa đã tạo nên đỉnh cao nghìn thước ở giữa câu thơ. Không chỉ vậy, câu thơ với các từ “lên”, “xuống” còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến vượt qua vách núi dựng đứng. Miêu tả thiên nhiên, Quang Dũng không chỉ nhấn mạnh sự điên cuồng của nó mà còn gợi lên một hình ảnh rất thơ. Bên cạnh sự nguy hiểm của đỉnh núi cao nghìn mét, tiếng thác ầm ầm, mãnh hổ Mường Hịch như trêu ngươi.

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Lời thơ đầy âm điệu, gợi sự mênh mang xa vắng, chơi vơi. Bản thân sự tương phản của các tông màu gợi lên những cánh cửa chớp trên núi, nhưng nổi bật hơn nữa là sự lãng mạn gợi lên từ một khung cảnh thiên nhiên như vậy. Phải một người lính đầy chất thơ trong tâm hồn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy sau khi vượt dốc, vượt cồn, bước trên đỉnh cao nghìn mét.

Với 14 dòng mở đầu của bài thơ, tuy hình ảnh người lính chỉ thấp thoáng trong thiên nhiên qua lăng kính cận cảnh của Quang Dũng nhưng bài thơ vẫn khắc họa được những nét đẹp rất độc đáo từ ý chí, nghị lực đến đoàn quân Tây Tiến. Hình tượng người lính ở đây cũng mang nhiều màu sắc đan xen từ cảm hứng hiện thực đến cảm hứng lãng mạn, một sự hòa quyện đặc trưng trong thơ Quang Dũng. Hiện thực và lãng mạn luôn hỗ trợ nhau trong từng câu thơ, từng hình ảnh.

Đó là hình ảnh người lính hiện lên như một đoàn quân mệt mỏi, nhưng cũng là một người lính có tâm hồn thơ mộng nên giữa bao nhiêu mỏi mệt vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng, vẻ đẹp của một “Hoa Mường Lát”. Trong hơi thở của đêm”. Người lính như thả hồn mình vào cõi mộng của đêm giữa núi rừng, tận hưởng hương hoa rừng. Đoàn quân Tây Tiến hành quân qua Mường Lát với đuốc trên tay, như có người nói, nhìn mãi, nhà thơ muốn tô đậm cái tinh tế, cái thi – thơ như một nét đẹp trong tâm hồn người lính.

Mặc dù 14 dòng mở đầu của bài thơ chủ yếu khắc họa một bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hiểm trở nhưng Quang Dũng muốn từ thiên nhiên ấy làm nổi bật hình ảnh những người lính Tây Tiến với tầm vóc cao lớn. Với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, sự lạc quan đã tạo nên sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để tiến lên phía trước. Đây là một bài thơ rất độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm rực rỡ hình ảnh người lính. Hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi với hiện thực, vừa có sự bay bổng trong trí tưởng tượng của người đọc chính bởi chất lãng mạn đó của hồn thơ Quang Dũng.

Mẫu 2

Lời giải chi tiết:

Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với tâm hồn khoáng đạt, bay bổng, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ tập trung ở khổ thơ đầu. Khổ thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ và đoàn quân Tây Tiến đã từng lao động và chiến đấu.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây,súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời !

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chánh, khi nhà thơ đã rời đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang công tác ở đơn vị khác. Tây Tiến là đơn vị bộ đội kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu diệt quân Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn, trải dài từ Sơn La, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa đến tận Sầm Nưa (Lào) – đây là những nơi hiểm trở, hoang vu, rừng thiêng nước độc. Những người lính Tây Tiến phần lớn là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ đã sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, đói nghèo, sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Sau hơn một năm hành quân, đơn vị Tây Tiến về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52.

Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, những kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và chiến khu xưa. Tác phẩm đã được nhiều thế hệ bạn trẻ và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc. Năm 1986, bài thơ được đăng trong tập thơ “Mây có ô” (xuất bản 1986). Lúc đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến”, sau tác giả đổi thành “Tây Tiến”. Nhan đề “Tây Tiến” đảm bảo tính súc tích của bài thơ, không cần bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ nhưng tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề cũng làm nổi bật hình ảnh trung tâm của tác phẩm, đó là hình ảnh đoàn quân Tây Tiến. Việc bỏ đi từ “nhớ” đã thay đổi vĩnh viễn đoàn quân Tây Tiến, làm cho hình tượng người lính Tây Tiến trở nên bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.

“Tây Tiến” là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ của nhà thơ về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng. Khổ thơ đầu tái hiện sinh động bức tranh thiên nhiên miền Tây với cảnh vật và những cuộc hành quân gian khổ, từ đó hình ảnh người lính Tây Tiến cũng lần lượt hiện lên.

Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” được khơi dậy bởi một nỗi nhớ da diết, da diết không sao kìm nén được. Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng: “sông Mã”, “Tây Tiến”, “núi rừng”. Nỗi nhớ ấy phải đau đớn lắm thì tác giả mới lặp lại hai lần từ “nhớ”. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ bập bùng có thực, vừa tha thiết, thường trực, mênh mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa gợi không gian cuộn trào của núi đèo bao la. Vần “ơi” khiến cho câu thơ như vang xa, phù hợp với các cung bậc cảm xúc.

Hai câu thơ đầu đã mở ra mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy dần được cụ thể hóa ở những câu thơ sau.

Hai câu thơ tiếp theo gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hai câu thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các từ chỉ địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi một vùng rộng lớn, xa lạ đối với người lính Tây Tiến. Sương mù vùng cao dày đặc như phủ kín bước chân, nuốt chửng cả đoàn quân đang mỏi mệt sau chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một hiện thực tiềm ẩn trong thơ kháng chiến. Nhưng những người lính ấy dù mệt mỏi vẫn trẻ trung, hiên ngang, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh “hoa trong đêm hơi” là một hình ảnh đẹp và giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc lung linh của đoàn quân tiến về làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân ra khỏi rừng, trên tay vẫn ôm những bông hoa rừng thơm ngát, cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ đoàn quân Tây Tiến như rừng những bông hoa. Đoàn quân ấy hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng sương mù trong rừng, suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời,

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Nhà thơ sử dụng hàng loạt từ tượng hình “khúc khuỷu”, “sâu”, kết hợp với nhịp 4/3 như cắt đôi câu thơ, mật độ câu thơ dày đặc khiến câu thơ  gợi đến sự gian nan, vất vả. Những vần tu từ này mở ra trong lòng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa những bất trắc, hiểm nguy của núi cao và vực thẳm ở núi rừng miền Tây. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một sự nhân cách hóa táo bạo, miêu tả những sườn núi cao chót vót. Người lính Tây Tiến lên đến đỉnh dốc cảm giác như mũi súng chạm mây. Qua đó ta cũng thấy được nét tươi vui, khỏe khoắn, vẫn có thể vui chơi vô tư sau một chặng đường hành quân gian khổ, mệt nhọc của những người lính Tây Tiến. Phép tương phản “ngàn thước lên – ngàn thước xuống” càng nhấn mạnh sự hiểm trở, núi non, khe vực của thiên nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang sơ, hiên ngang, hùng tráng trên đường hành quân của người lính Tây Tiến. Câu thứ tư có bảy thanh bằng với “Nhà ai ở Pha Luông mưa bay bay”, vần mở “ôi” đặt ở cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng, gợi những phút giây nghỉ ngơi, thư thái của người lính. Họ đứng trên đỉnh núi, tận hưởng chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt ra xa, thấy màn mưa mờ sương nơi bản Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ gợi lên sự dữ dội hoang sơ, tĩnh lặng của núi rừng, đồng thời cũng gợi lên những chặng đường hành quân gian khổ, mệt mỏi nhưng tràn đầy sức trẻ, yêu đời của những chàng trai Tây Tiến.

Người lính Tây Tiến không chỉ đối mặt với vách đá dựng đứng, mà còn chịu nhiều mất mát, hi sinh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Họ chủ động đón nhận cái chết, coi nó đơn giản như một giấc ngủ. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ” thật xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Đoạn thơ đã tiếp thêm cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Và người lính Tây Tiến tiếp tục bị núi rừng miền Tây thử thách:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Các từ chỉ tần suất lặp lại thời gian “chiều”, “đêm” kết hợp với biện pháp nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” càng tô đậm thêm khung cảnh hoang vu bí hiểm, dữ dội, hiểm trở, cái chết luôn rình rập đe dọa những người lính của núi rừng phía tây. Mối nguy hiểm đó không chỉ lan truyền trong không gian, mà còn mở rộng và lặp lại thường xuyên theo thời gian. Hai câu cuối bài thơ bỗng chuyển cảnh:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Núi cao rừng thẳm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm của những cô gái Thái. Từ cảm thán “Nhớ ôi” ở đầu đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, ám ảnh của Quang Dũng cũng như của người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây. Lòng nhà thơ đau nhói khi nhớ lại cảnh đoàn quân quây quần bên nồi xôi thơm phức. Đó là những khoảnh khắc ấm áp ngắn ngủi nhưng ngọt ngào, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ “mùa em” rất độc đáo, gợi liên tưởng xinh đẹp, lãng mạn của những cô gái Thái vừa khỏe khoắn, vừa dịu dàng, đằm thắm. Hai câu kết thúc khổ thơ đầu của bài thơ Tây Tiến có giọng điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm trạng cho người đọc cảm nhận những đoạn thơ tiếp theo.

Ở những câu thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về những đêm liên hoan văn nghệ thắm tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về những chân dung tập thể. những người lính Tây Tiến dũng cảm, anh dũng. Kết thúc bài thơ, Quang Dũng thể hiện lời thề gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.

Khổ thơ đầu của bài thơ Tây Tiến thể hiện tài năng và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, mang đậm ấn tượng, tạo nên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên nền thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng. Qua đó, ta cảm nhận được tình cảm gắn bó sâu nặng, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày chiến đấu của đoàn binh Tây Tiến – một thời mãi mãi ghi nhớ và tự hào.

Mẫu 3

Lời giải chi tiết:

Tây Tiến được coi là đứa con đầu lòng của sức lực, tài năng của Quang Dũng và cả của thơ ca kháng chiến của nền văn học Việt Nam, nhất là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Những học sinh áo trắng, cất bút mực xanh, lên đường chiến đấu vì tình yêu Tổ quốc, quê hương thiết tha, vì hòa bình của dân tộc, các em ra đi với trái tim hào hùng, anh hùng nhưng vẫn mang đậm chất lãng mạn trang nghiêm và tự hào của tuổi trẻ trí thức Hà Nội. Điều đó đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một cách xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến với một bút pháp lãng mạn phóng khoáng, hồn hậu và rất tài hoa. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng vào trái tim của người lính mà cũng là của chính tác giả nỗi nhớ Tây Bắc và vẻ đẹp vượt qua gian khổ của người lính Tây Tiến.

Quang Dũng sinh ra ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa là một nhạc sĩ, vừa là một họa sĩ giàu chất thơ, ông rất giàu nhạc họa. Quang Dũng cũng là một người lính xuất sắc, tham gia nhiều chiến trường khác nhau nên những bài thơ về người lính của ông rất chân thực, sinh động, mạnh mẽ, phong cách thơ chỉ gói gọn trong vài câu chữ. Hào phóng, tâm hồn, lãng mạn và tài năng. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947, chủ yếu là thanh niên Hà Nội, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh thắng Pháp. Địa bàn hoạt động trải dài từ Sơn La, Hòa Bình, sang Sầm Nưa (Lào) rồi đến phía Tây Thanh Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ. Sáng tác Tây Tiến vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những ngày tháng trong đoàn binh Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một nhan đề ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn thể hiện rõ cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.

Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.

Hai dòng đầu bài thơ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về núi rừng nhớ chơi vơi” gợi lên nỗi nhớ nhung, mong mỏi về một thời đã qua, về một miền đất xa xăm. Tây Tiến” rất tha thiết, khắc khoải, Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà dường như nó đã trở thành một người thân. Quang Dũng đã gọi tên “Sông Mã” ngay từ những dòng thơ đầu tiên của mình, nơi ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của Miền núi Tây Bắc, trong suốt cuộc chiến trường kỳ, dòng sông ấy không chỉ là một địa danh trên bản đồ địa lý mà còn trở thành người bạn, người tri kỷ, nhân chứng lịch sử chứng kiến biết bao đau thương, gian khổ, niềm vui, nỗi buồn của đồng bào, chiến sĩ trong suốt thời gian chiến đấu. Vì vậy trong nỗi nhớ của Quang Dũng trước hết là về đoàn quân Tây Tiến thân yêu, sau đó lại hướng về Tây Bắc với dòng sông Mã Vương đầy ắp kỉ niệm.Không chỉ vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh núi rừng mà xa lạ mà là nỗi nhớ! Vì đối với những người lính xa quê, hình ảnh núi rừng Tây Bắc thật xa lạ, Quang Dũng hai lần nhắc đến từ “nhớ” để nhấn mạnh nỗi nhớ da diết đặc biệt là trong tâm hồn “nhớ chơi vơi” là một cách thể hiện nỗi nhớ rất riêng. Đó là cảm giác cô đơn, thất vọng, bâng khuâng trong một nỗi nhớ xa xăm, bởi Tây Bắc xa lắm, Tây Bắc đầy sương mù, mây quanh núi trống trải, vắng vẻ nhưng rất đỗi hào hùng.

Nếu 2 câu thơ đầu là nỗi nhớ thì ở 12 câu thơ tiếp theo nỗi nhớ đó đã được nhà thơ khắc ghi quá nhiều kỉ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ Sài Khao, Mường Lát trong “Sài Khao sương che đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm”. Hai địa danh gợi cho ta những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, từ đó trải ra những không gian rộng lớn khác xuyên suốt bài thơ như Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu,… dường như là nỗi nhớ da diết. Thơ trải dài khắp không gian, mỗi nơi nhà thơ bước qua, tâm hồn nhà thơ đều thấy yêu và lưu luyến. Có thể nói, mỗi địa danh đại diện cho núi rừng Tây Bắc đã trở thành một kí ức không thể phai mờ khắc sâu trong tâm trí nhà thơ.

Hình ảnh “sương mù phủ đoàn quân mỏi” gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát trong sương mờ của núi rừng Tây Bắc, gợi vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp của rừng. Cảm giác “mỏi mệt” hiện diện trong máu xương của người lính, dường như vẫn còn như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều đó chứng tỏ nỗi nhớ của tác giả, bởi nỗi nhớ càng nhỏ thì nỗi nhớ càng da diết. Càng lớn tuổi, tôi càng nhớ “mỏi mệt” hành quân đường dài! “Đêm Mường Lát hoa về”, hoa ở đây có thể hiểu là muôn ngàn đóa hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn, hoa là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm như hoa lửa trong những đêm hành quân đen tối lên Mường Lát. Hình ảnh đuốc hoa vừa gợi sự lãng mạn vừa hào hùng của một thời Tây Tiến.

Sau nỗi nhớ Mường Lát, Sài Khao là nỗi nhớ về những tháng ngày hành quân, chiến đấu gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc hiểm trở, hiểm trở.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Từ “dốc” gợi cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, nối tiếp nhau, không bao giờ dứt. Từ “quanh co”, “sâu thẳm” gợi sự hiểm trở, quanh co, ngoằn ngoèo và gập ghềnh, thêm vào đó là sự bấp bênh của núi non, bên là vách núi, bên là vực thẳm. Cả câu thơ gợi lên một không gian hành quân cao rộng và người lính đang cố gắng hết sức mình để vượt qua con đường nguy hiểm.  “Nghìn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản “lên xuống” tiếp tục gợi lên sự cao ngất ngưởng của ngọn và vực sâu của đáy. Đoạn thơ đã làm nổi bật thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở của vùng núi Tây Bắc và sự nỗ lực vượt qua những khó khăn của địa hình chiến tranh lúc bấy giờ của người lính. Nhưng thiên nhiên dù hùng vĩ, trùng điệp, uốn lượn đến đâu cũng trở nên vô nghĩa dưới chân đoàn quân Tây Tiến, người lính hiện lên với tầm vóc như một đối thủ xứng tầm của thiên nhiên. Chính vì đoàn quân đang hành quân trên những ngọn núi cao chót vót mà “mây” như lơ lửng , như chơi vơi. Dưới chân anh tưởng chiến binh đang đi trên mây chứ không phải núi.

Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và sáng tạo của Quang Dũng, qua hình ảnh người lính hành quân qua những đỉnh núi mây trời có thể với tới, súng khoác vai, họng súng chĩa thẳng. Dường như chọc thủng trời xanh, câu nói “súng ngửi trời” là cách cảm nhận tinh nghịch của anh lính trẻ lãng mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có giọng điệu rất khác ba câu trên, câu thơ được hạ xuống nhẹ nhàng, tưởng tượng như người lính từ trên đỉnh núi cao nhìn xuống, thấy cảnh vật mơ hồ, sắc cạnh nhưng là dấu hiệu của sự sống.

Sau những ngày hành quân gian khổ, hồi ký của Quang Dũng viết về sự hy sinh của người lính Tây Tiến.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Cái gọi là “đồng chí” biểu thị tình cảm thân thiết, những câu “không bước tới” và “quên đời” đều là cách nói giảm nhẹ của cái chết, tức là để xoa dịu nỗi đau mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hi sinh cao cả của người lính. Tư thế hi sinh “súng ngửi trời” thể hiện tinh thần của người lính dù có hy sinh thân mình cũng không bao giờ từ bỏ trách nhiệm, trang bị gắn liền với cuộc đời người lính, đó là tư thế dũng cảm, gan dạ và dũng cảm. hiệu quả. tình cảm của người lính. Có thể nói ở hai dòng trên là sự tiếc thương của nhà thơ đối với người đồng đội của mình và cũng là sự khâm phục trước sự hy sinh anh dũng đó của nhà thơ. Đoạn thơ cũng thể hiện cái nhìn tỉnh táo, dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh nhưng cũng không giấu nỗi đau mất mát.

Tiếp đến là nỗi nhớ về một thời gian khó nhưng lãng mạn được thể hiện rõ nét qua 4 dòng thơ sau:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cấu trúc thơ hiện đại độc đáo, sử dụng động từ mạnh trong câu “Chiều chiều thác oai linh gầm thét” cho thấy sự dữ dội, hoang sơ hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở vẻ hoang sơ hùng vĩ mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những nguy hiểm khó lường. Ngoài ra còn có sự hiện diện của thú dữ. Đắm chìm trong kỉ niệm nhưng nhà thơ chợt bừng tỉnh. Nỗi nhớ ở đây được thể hiện tha thiết, cồn cào, nhớ cả những bát cơm đầy, hương khói lửa, cơm nếp ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi về một thời kháng chiến vừa oanh liệt. vất vả và lãng mạn.

14 dòng đầu của bài thơ xoay quanh nỗi nhớ da diết về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, vẻ đẹp vượt lên gian khổ của người lính, đức hi sinh cao cả và sự lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa hư không gian khổ chồng chất. Bằng ngòi bút hào hoa, lãng mạn, Quang Dũng đã thể hiện chân thực nhất nỗi nhớ da diết trong tâm hồn người lính về một thời kháng chiến đã qua bằng giọng điệu phóng khoáng và hình ảnh thơ giàu sức gợi , nhịp thơ thay đổi, tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.


Cùng chủ đề:

Phân tích gặp Ka – rít và Xi – la - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích hình tượng nhân vật Đăm Săn - CTST
Phân tích hình tượng nhân vật Đăm Săn - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích hình tượng đất nước đau thương mà anh dũng - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích khổ 1 bài thơ Tây Tiến - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích khổ cuối bài Tây Tiến - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích nhân vật Huyện Trìa trong Huyện Trìa xử án - Văn mẫu 10 CTST
Phân tích nhân vật Mẹ Đốp trong Xã trưởng - Mẹ Đốp