Phân tích nhân vật Thị Nở trong Chí Phèo của Nam Cao — Không quảng cáo

Văn mẫu 11 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 11 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo


Phân tích nhân vật Thị Nở trong Chí Phèo của Nam Cao

Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao thẳng cánh hạ bút những dòng này: “Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”. Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thì chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu nhân vật

2. Thân bài

2.1. Ngoại hình

- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”

+ Ngẩn ngơ: hành độngt hep bản năng

+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người

+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:

⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi

2.2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người

- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở

+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:

+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”

+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại

+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một ngườ với sự lương thiện trong căn tính

⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí

2.3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình

- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng

- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí

- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”

- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối

2.4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo

+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác

+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí

+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát

⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề.

Bài mẫu

Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã hạ bút những dòng này: “Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”. Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thì chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Thế mới biết Nam Cao thương nhân vật của mình biết mấy!

Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không xấu tí nào cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện mạo lẫn tâm hồn?

Thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: Ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ… Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì… Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành ngược hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn…), hoặc chỉ nội một phương diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ – các nhân vật trí thức)… Ông đã nhận thức con người với tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên – loại nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt để đi theo nguyên tắc này.

Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua và chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển hình xã hội với tư cách là đại diện tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị biệt (nhiều khi oái oăm, trái khoáy) của cuộc đời. Những thứ ấy không phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình ảnh, tình huống truyện… và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão Hạc, Bá Kiến, Thứ, Điền… có nhiều trong thực tại, chứ còn Lang Rận, Mụ Lợi, Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị Nở cũng là một mảnh vụn dị biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ ra đầy nhiệt hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm, nham nhở của cõi người.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một hình ảnh đàn bà nào như Thị Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng đã có lần chê bai những người đàn bà thuần xấu xí: “Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần”, hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: “Lỗ mũi mười tám gánh lông…”. Ta còn có thể tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác “kể xấu” về người đàn bà nữa. Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngôn ngữ bùn đất quê kiểng như Nam Cao không thể không biết đến những bài ca “ngoa ngoắt” kiểu ấy.

Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định, có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng nhân vật của mình. Ông đã nhất quán từ đầu đến cuối để cho nhân vật Thị Nở của mình thậm xấu như vậy.

Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng kích thước có tầm khái quát cho hình tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa tác phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều tầng nghĩa thú vị…


Cùng chủ đề:

Phân tích nhân vật Chí Phèo qua truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
Phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong ‘Chữ người tử tù’_bài 1
Phân tích nhân vật Thị Nở trong Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích nhân vật Từ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao
Phân tích nhân vật quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Phân tích nhân vật “Xuân Tóc Đỏ” trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng
Phân tích những cách tân nghệ thuật của Xuân Diệu qua một số bài thơ, câu thơ của ông
Phân tích những cách tân nghệ thuật của nhà thơ Xuân Diệu qua một số bài thơ, câu thơ của ông