Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Vấn đề cần triển khai về “Chí Phèo” : - Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. - Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi. - Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở.
I. Đặt vấn đề :
* Cách 1
Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam, Nam Cao nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm 1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc.
* Cách 2 :
Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo” của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí Phèo – thù hận với tất cả : cuộc đời – xã hội – con người và ngay cả bản thân, một Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng đẵng của một kiếp sống không ra sống, trong không gian tăm tối ngột ngạt của xã hội Việt Nam đêm trước của cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Để khi gấp trang sách lại, trái tim mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương đau đớn trước bi kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ.
II. Giải quyết vấn đề :
A. Tổng : (bao quát tinh thần của tác phẩm)
1. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc của nhà vănvới đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng tỉnh táo là cả một trái tim nhân hậu đằm thắm đối với người nông dân – những người sống cùng tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo, cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp gắn với con người của nhà văn.
2. Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt muốn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ, ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương bế tắc, trước khi ánh sáng của một ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao.
3. Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền thoại – cái đêm “trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng” – đã đem đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí “ma chê, quỷ hờn” : Thị Nở.
B. Phân : (cảm nhận chi tiết – phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật) :
* Khoảnh khắc bi kịch của Chí Phèo
1. Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được những âm thanh đời thường : “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cả một đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảm-giác-người đã thức tỉnh lý trí, nối kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau và cô độc.
2. Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột “Chao ôi là buồn!”.. Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏmột con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Chao ôi là buồn! Vì mãi mãi cái ước mơ về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại một cách lờ mờ “hình như…” cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp chết được lương tâm bé bỏng ấy.
3. Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn giữa đồng loại của mình : “Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già củ hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Nam Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn đặc tả sự “bâng khuâng” trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ, hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ “hình như…”. Ở đó le lói ngọn lửa của một trái tim Người.
4. Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút phân tích tâm lý của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về lại với cõi người của Chí Phèo : bắt đầu từ ranh giới mong manh “hình như mắt ươn ướt” như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng – giúp nhân vật ý thức đầy đủ về quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt “Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của anh Chí ngày xưa : hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ cười tin cẩn của Thị Nở ,làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười, Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người.
* Thị Nở :
1. Tình yêu và niềm tin mà Chí Phèo có được bắt đầu từ Thị Nở – nhân vật đẹp nhất của tác phẩm. Có thể những chi tiết mô tả ngoại hình Thị Nở làm nguời đọc nhớ nhiều và ấn tượng mạnh về người đàn bà nhan sắc xấu nhất trong lịch sử vă nhọc. Và những kẻ vô tâm, chỉ quan tâm hình thức câu khách rẻ tiền mà thờ ơ trước nỗi đau đồng loại mới cười cợt , gán ghép cho tác phẩm tên gọi sống sượng “Đôi lứa xứng đôi”. Người đàn bà Nam Cao tạo ra để ban tặng cho Chí Phèo để giúp hắn trở lại làm người nếu là một mỹ nhân thì mới là điều lạ. Vẻ đẹp của Thị Nở không nằm trong hình thức mà bộc lộ ngay trong những nét “dở hơi” ngược với quan niệm xã hội.
2. Người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo tần và có trái tim người mẹ bao dung, độ lượng. Trong cuộc gặp gỡ tình yêu Thị Nở – Chí Phèo, Nam Cao đã lột tả những vẻ đẹp ấy thông qua những chuyển biến tâm trạng Chí Phèo : người đàn bà đích thực đối lập với “con quỷ cái” bà Ba, “hắn muốn làm nũng thị như với mẹ”. Thị Nở có đầy đủ phẩm chất của một người bình thường : biết lo toan, thương hại, có phút “lườm”, “e lệ” trong cảm giác tình yêu và trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của con nguời. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xấu nhường ấy và đẹp nhường ấy. Nhưng cuối cùng Thị Nở vẫn phải trở về với mảnh đất hiện thực – nơi Thị có một bà cô già năm mươi tuổi chưa chồng, để được nghe lời phán xét tương lai cho mối tình Chí Phèo – Thị Nở. Nhân vật vẫn không có phép màu như trong cổ tích để có thể kéo hẳn Chí Phèo ra khỏi hình hài lốt quỷ để hoà nhập vào cuộc sống thân thiện của loài người, bởi bản thân Thị Nở cũng bị cả xã hội kia xem như “con vật ghê tởm nhất”. Ta chợt nhận ra : cái gọi là hạnh phúc ở đời không dành sẵn cho những người như Chí Phèo – Thị Nở, đó là thông điệp đầy phẫn uất của Nam Cao. Tuy căm uất dâng tràn nhưng vẫn phải cố nén xuống trong giọng văn tỉnh rụi – bản lĩnh nhà văn đã không để ông can thiệp vào số phận nhân vật của mình một cách thô bạo, Nam Cao muốn những nguời đọc có lương tri phải thấu hiểu những khoảnh khắc xung đột của Thị Nở, của Chí Phèo sau giờ phút “thị trút vào mặt hắn nguyên vẹn lời bà cô”. Đó là khoảnh khắc nẻo về của Chí đã bị chặn đứng bởi những định kiến xã hội về một con người đã có quá nhiều vết đen trong quá khứ – một kẻ “không cha không mẹ”, chỉ có mỗi một “nghề rạch mặt ăn vạ”. Đôi khi những định kiến thật tàn nhẫn, nó tước đoạt cơ hội cuối cùng của Chí Phèo trở lại cuộc sống bình thường.
* Nỗi đau Chí Phèo :
1. Trong giờ phút tột cùng đau đớn của một người tuyệt vọng, nhà văn đã để nhân vật có những khoảnh khắc tâm trạng thật khó quên : “Hắn ngẩn người ra rồi chợt hiểu”, “hắn sửng sốt đứng lên gọi Thị lại…”. Chỗ dựa cuối cùng để Chí tưởng có thể đứng vững trên hành trình trở lại cõi người giờ đây không còn nữa! Ta có thể nhận ra nỗi bàng hoàng đến ê chề của Chí. Tất cả đều sụp đổ, hắn trở về với cuộc sống đầy bóng tối của mình. Nhưng điều không bình thường là ngay trong giờ phút ấy, “hắn thoáng hít thấy hơi cháo hành” – hơi cháo tình người đích thực mà Chí đã được ban tặng từ Thị Nở.
2. Lại rượu, lại say, Chí muốn mượn rượu để quên đi thực tại, trở về với cuộc sống u mê lẫn lộn thật giả tốt xấu trắng đen thiện ác của loài quỷ dữ. Nhưng lương tri đã hồi sinh. Hơi cháo hành cứ lẫn cùng men rượu. Tiếng khóc bật ra “Hắn ôm mặt rưng rức khóc” . Chưa khi nào, Chí lại phải chịu đựng sự giằng xé của lương tâm dữ dội như vậy. Chí đang phải đối diện với chính mình, trong sự phán xét nghiêm khắc của lương tâm.
3. Tưởng chừng tội ác đã thắng thế khi trong hơi rượu, Chí lại xách dao ra đi, miệng lảm nhảm ý định “đâm chết cả nhà con đĩ Nở”. Nhưng hơi cháo hành đã quyện vào trong tâm hồn Chí, để giờ đây, tội ác không còn có thể sai khiến được hành động của anh. Phần người còn lại đã chiến thắng chất quỷ dữ, để sau bao nhiêu năm lầm lỡ, giờ đây Chí nhận rõ mặt kẻ thù, hành động có vẻ vô thức đã báo hiệu cho một tiềm thức sâu thẳm của người lương thiện trong Chí. Con quỷ dữ đích thực đã tước đoạt cả nhân tính lẫn nhân hình của Chí là Bá Kiến
* Bá Kiến :
1. Bản lĩnh của một nhà văn và khả năng nhận thức sâu sắc thực tại xã hội đã giúp Nam Cao phác họa chân dung của giai cấp bóc lột một cách đầy đủ nhất so với các nhà văn đương thời. Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già đời trong nghề bóc lột : gia đình bốn đời làm tổng lý, bản thân Bá Kiến từng là lý trưởng, chánh tổng; cha truyền con nối trong thủ đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi của một làng, mà “cụ Bá” là “bá hộ, tiên chỉ, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu ” – đại biểu cho cả một bộ máy thống trị tay sai thực dân. Một nhân vật như thế, không thể là một kẻ hợm hĩnh và ngu dốt như Nghị Quế (Tắt đèn – Ngô Tất Tố) hay chỉ có tàn bạo và tham lam như Nghị Lại (Bưóc đường cùng – Nguyễn Công Hoan).
2. Nam Cao đã phác họa bản chất Bá Kiến bằng những chi tiết khó quên từ bên ngoài đến bên trong : cụ Bá có tiếng quát rất sang để “nắn gân người khác”, có nụ cười Tào Tháo giòn giã và “bản thân cụ cũng tự hào hơn đời cái tiếng cười ấy”. Bên trong vẻ sang trọng là một con quỷ dâm ô, có tới bốn bà vợ mà còn đi cướp vợ người – khi còn làm lý trưởng đã không bỏ lỡ cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Nhưng điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội ác đã được hắn nâng lên thành một nghệ thật cai trị kẻ khác : “mềm nắn, rắn buông”, “dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò”, “nắm lấy đứa có tóc”, đặc biệt là những thủ đoạn rất nham hiểm :”Hãy vất người ta xuống sông rồi hãy vớt nó lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi hãy vất trả lại năm hào vì “thuơng anh túng quá”". Chưa một nhà văn nào lại giúp người đọc hình dung ra tội ác đáng sợ đến ghê tởm như Nam Cao. Với tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ “khôn róc đời” và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh phúc của bao nguời. Đáng sợ nhất là chính những nạn nhân của Bá Kiến lại bị hắn biến thành công cụ đắc lực của tội ác: Năm Thọ, Binh Chức – với bản tính lưu manh và đỉnh điểm là Chí Phèo – đã thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
3. Để Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vào chính giờ phút “cụ Bá” đang ghen với lũ trai trẻ vì “bà Tư phốp pháp, hai má hây hây…” và cụ đang có ý định “bỏ tù hết mấy thằng trai trẻ”, đoạn văn quả có thể làm chúng ta bật cười vì sự ghen tuông của một ông lão đã ngoài sáu mươi, nhưng ta bỗng giật mình vì chứng tích của sự ghen tuông đáng buồn cười ấy bỗng hiện ra : một thằng điên, một thằng say, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sẵn sàng đâm chém bất cứ ai – ngày xưa nó cũng là một thằng trai trẻ…
* Cuộc đụng đầu Chí Phèo – Bá Kiến :
Tình huống tất yếu phải xảy đến đã được Nam Cao dày công chuẩn bị cho nhân vật của mình. Khi sự thâm hiểm và tàn bạo đã bị bóc trần, khi những “tiếng cười và tiếng quát rất sang” của cụ Bá không còn nắn gân người khác như mọi khi đuợc nữa, đó cũng là khoảnh khắc thức tỉnh lương tri của một con người. Chí Phèo trong cơn say có những hành động thật đáng sợ. Nhưng có một điều, tiếng nói vang lên “dõng dạc” lại là của một con người hoàn toàn tỉnh táo, của một anh Chí đang đòi lại quyền “làm người lương thiện” đã bị bọn cường hào như Bá Kiến tước đoạt. Sự thật được nói lên, khiến Bá Kiến phải run sợ, “dịu giọng” để lảng tránh. Mặt nạ rơi xuống, Bá Kiến hiện nguyên hình là con quỷ dữ nham hiểm và hèn nhát đang cố trốn chạy sự trừng phạt của lương tri thức tỉnh. Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn : ” Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?”. Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội. Muốn trở về, Chí “chỉ còn một cách” là giết chết con quỷ dữ trong chính anh. Giờ phút Chí vung dao lên kết liễu đời Bá Kiến là hành động tất yếu phải xảy đến, sau đó chính anh phải tự sát đã là một câu trả lời của Nam Cao giải đáp rõ nguyên nhân bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội cũ – sự bế tắc, quẩn quanh vẫn đè nặng lên cuộc sống của họ.
* Điều còn lại sau hai cái chết :
Không dừng lại sau hành động nhân vật đâm chết kẻ thù và tự hủy chính mình, Nam Cao đã dành khúc vĩ thanh để nói lên thái độ của mọi người sau hai cái chết bất ngờ. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, những phe cánh cường hào hí hửng vì loại được đối thủ mạnh mà không tốn công đổ sức. Cũng có nghĩa là làng Vũ Đại vẫn như xưa, vẫn cái cảnh đám cường hào chức dịch “hè nhau bóc lột con em đến tận xương tủy và nhè từng chỗ hở của nhau để trị”. Một màu xám ảm đạm vẫn bao trùm lên cuộc sống, nó khiến những người lương thiện phải lo âu “tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác…”. Và như vậy, cái chết của Chí Phèo – Bá Kiến thật vô nghĩa. Nhưng vẫn có một người nghĩ khác mọi người : Thị Nở. Chỉ có mình Thị còn lóe lên trong tâm tư hình ảnh của một con người “hiền như đất”. Suy nghĩ ấy như một niềm an ủi cho vong linh Chí Phèo, ít ra cũng còn có một người thừa nhận anh là người trong thẳm sâu lốt quỷ. Người ta chỉ thật sự chết khi bị cuộc đời lãng quên, chối bỏ. Chí vẫn sống trong tâm hồn người đàn bà đích thực của cuộc đời anh. Có thể nhận ra ở chi tiết này thái độ chiêu tuyết cho nhân vật của chính Nam Cao, là niềm tin vào sự bất diệt của chất người sẽ không bao giờ bị hủy diệt.
C. Hợp:
Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…” là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao. Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Trong cái nhìn của Nam Cao ,chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc : nếu không thay đổi thực tại, sẽ lại tiếp tục những bi kịch quẩn quanh không lối thoát của con người. Thị Nở có thể chấp nhận Chí Phèo, nhưng không thể đối mặt với thành kiến, với tập tục của làng xã. Bi kịch chửa hoang phải bỏ làng đi của con gái Tự Lãng vẫn còn đó. Cái lò gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. Trong hoàn cảnh hiện thực lúc bấy giờ, chúng ta không thể trách thái độ bi quan của nhà văn trước hiện thực. Nhưng bản thân sự việc ấy đã gợi lên suy nghĩ nung nấu trong lòng độc giả về sự cần thiết phải thay đổi hoàn cảnh để tránh cho con người khỏi sa vào vòng luẩn quẩn. Đó cũng là ý nghĩa xã hội tích cực của tác phẩm Chí Phèo.
III. Kết thúc vấn đề :
Đọc Chí Phèo , ta càng trân trọng tấm lòng đối với con người của nhà văn Nam Cao, hiểu được thái độ dũng cảm đối mặt hiện thực của một người cầm bút chân chính. Tác phẩm chính là minh chứng cho một quan niệm sáng tác đúng đắn của nhà văn, để “người gần người hơn”. Có lẽ xuất phát từ tấm lòng ấy, tác phẩm vẫn sống mãi trong lòng bao thế hệ độc giả.