Phân tích văn bản Cõi lá
I. Mở bài - Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, tác giả: Nhà văn Đỗ Phấn và tác phẩm “Cõi lá”
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, tác giả: Nhà văn Đỗ Phấn và tác phẩm “Cõi lá”
II. Thân bài
- Tác giả Đỗ Phấn
+ Ông sinh năm 1956 tại Hà Nội
+ Bằng bút pháp nghệ thuật tài hoa, độc đáo cùng những màu sắc khác lạ qua việc khắc họa hình ảnh đời sống sinh hoạt của người dân Thủ đô.
- Tác phẩm Cõi lá: Nhà văn đã bằng tình yêu thương của mình, mà khắc họa nên vẻ đẹp của mùa xuân nơi mảnh đất Thủ đô, thật thơ mộng, thật dịu dàng, khiến cho bao trái tim bạn đọc phải xao xuyến về Hà Nội thương
- Tổng kết giá trị nội dung, giá trị của tác phẩm
- Nhận xét tình cảm của nhà thơ dành cho mảnh đất Hà Nội
III. Kết bài
- Cảm nghĩ của bản thân về tác phẩm “Cõi lá”
Bài tham khảo Mẫu 1
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Những câu thơ ấy của nhà thơ Chế Lan Viên đã cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa con người với mảnh đất nơi ta sinh sống. Từ nơi ta sinh ra, lớn lên đến từng vùng đất ta đặt chân tới trong hành trình của cuộc đời, tất cả đều trở thành một mảnh ghép sống động của tâm hồn. Hiểu được tình cảm ấy, nhà văn - họa sĩ Đỗ Phấn - một người con của Hà Nội đã gửi gắm tình yêu với Thủ đô nghìn năm văn hiến qua tản văn “Cõi lá”.
Đỗ Phấn bén duyên với văn chương khá muộn bởi ông vốn là một họa sĩ. Nhà văn tự nhận mình là một kẻ “tay ngang” trong văn chương bởi ông không học qua một trường lớp chuyên nghiệp nào. Ông viết về Hà Nội bằng một tình yêu tự nhiên và tha thiết. Đỗ Phấn quan niệm rằng tất cả những điều đẹp đẽ và xấu xí của nơi mình đang sống đều “trở thành ký ức theo ta suốt đời. Lớn hơn, có thể là tiền đề cho việc sáng tạo văn học nghệ thuật”. Những tác phẩm như “Ngồi lê đôi mách với Hà Nội”, “Hà Nội thì không có tuyết”, “Bâng quơ một thời Hà Nội”,… đều cho thấy con mắt quan sát tinh tường, những cảm nhận tinh tế cùng sự gắn bó của Đỗ Phấn với Hà Nội. Tác phẩm “Cõi lá” được sáng tác vào năm 2008, là một trong những tản văn được yêu thích nhất của Đỗ Phấn, thể hiện rõ đặc trưng phong cách của nhà văn.
Mở đầu tản văn là cảm xúc mãnh liệt của tác giả khi mùa xuân tới: “Bẽ bàng mùa xuân đến muộn. Khi cái nắng đã chao chát trên những lộc non báo hiệu mùa hè, chẳng hiểu vì sao lòng người bỗng rộn ràng đến thế. Oà thức cùng với xôn xao lá cành”. Từ láy “Bẽ bàng” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh tâm trạng của con người. Mùa xuân năm nay tới hơi muộn nên lòng người có chút giận hờn chăng? Nàng xuân đến khi cái nắng đã tràn lên những mầm non mơn mởn. Từ láy “chao chát” diễn tả cái nắng có phần gay gắt mà vẫn rực rỡ tươi sáng. Đứng trước khung cảnh ấy, lòng người bỗng rộn ràng náo nức. Những niềm vui trong tâm hồn bỗng “Òa thức”, xáo động không ngừng. “Òa thức” là sự sáng tạo từ rất riêng của Đỗ Phấn diễn tả trạng thái bừng tỉnh đầy bất ngờ và mạnh mẽ. Tác giả ngắt câu văn một cách đột ngột, để động từ “Òa thức” ở đầu câu càng nhấn mạnh sự khoan khoái, tràn đầy sức sống của con người và thiên nhiên.
Mùa xuân, chẳng phải là đề tài hiếm gặp của văn chương từ cổ chí kim. Xuân Hà Nội cũng đã được nhiều cây bút miêu tả. Nhưng với Đỗ Phấn, cảm thức về xuân gắn chặt với những màu lá. Tác giả quan sát chín cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông và chìm đắm vào “khoảng trời trong veo màu thạch lựu” mà hàng cây tạo nên. Dường như đứng dưới những tán cây ấy, con người được bước vào một không gian riêng, tách biệt với thế giới bên ngoài. Thạch lựu chính là màu đỏ nhưng trong trẻo và lấp lánh tựa những viên ngọc quý. Tác giả dùng màu thạch lựu để miêu tả sắc đỏ của lá, gợi ra khung cảnh những cành lá đỏ đan cài vào nhau san sát, được ánh nắng chiếu vào bỗng trở nên lung linh huyền diệu. Từ cái nhìn bao quát, tác giả ngắm nghía kĩ càng hơn từng chiếc lá và nhận ra sự chuyển động nhẹ nhàng của những chiếc lá non. Chúng “đu đưa trong gió tưởng như có tiếng chuông chùa huyền hoặc vọng về từ cõi thanh cao u tịch”. Câu văn vừa tả cảnh lại vừa tả âm thanh. Phải là con người yêu Hà Nội, có trái tim nhạy cảm trước thiên nhiên mới có thể viết nên những câu văn tinh tế như vậy! Chỉ một tiếng xao động nhẹ nhàng mà nay gợi cảm, nên thơ đến thế! Cách miêu tả “thanh cao u tịch” còn gợi ra chiều cao chót vót của những hàng cây. Con người nhỏ bé đứng từ mặt đất ngước nhìn lên chỉ thấy một vùng trời đỏ xa xăm vời vợi. Những gốc cây ấy đã gắn bó mật thiết với đời sống con người Hà Nội nên mới có khung cảnh “Những đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá”. Hàng bồ đề khiến người ta yêu thương, nhung nhớ, xuyến xao đến mức nhiều người chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội [..] này chỉ để ngắm nhìn một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy tháng Giêng.” Cách so sánh “như mật chảy tháng Giêng” thật độc đáo, khiến đoạn văn mang đậm chất trữ tình mượt mà như thi ca. Màu thạch lựu óng ánh chảy tràn trên hè phố, bao trùm lấy không gian, khiến người ta đê mê say đắm đến mức muốn “nếm” thử sắc hương. Đó chính là món quà quý giá mà tháng Giêng đã ban tặng cho Hà Nội.
Sau hình ảnh về hàng cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông, nhà văn bày tỏ những chiêm nghiệm sâu sắc: “Nhìn chung thì vòng đời của một chiếc lá bồ đề dù được mọc ra từ Hà Nội hay ở nơi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp cũng chỉ kéo dài không đến một năm. Có rất nhiều loài cây trong phố có một vòng đời như vậy. Và hình như đó cũng là một đặc trưng của cây Hà Nội. Làm nên mùa lá rụng kéo dài suốt từ thu sang đông”. Đoạn văn tả thực một đặc trưng rất riêng của Hà Nội - quanh năm lá rụng. Dù là mùa nào ở Thủ đô, ta cũng có thể bắt gặp khung cảnh những hàng cây đổ lá, những góc phố xào xạc lá bay. Dắt xe dạo quanh Hà Nội một vòng, người du khách bỗng cảm thấy lạ lùng và phải thốt lên: “Ồ, một ngày ở đây có tất cả các mùa?”. Với nhà văn, lá rụng, lá mọc không còn là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà đã trở thành một phần không thể thiếu trong trái tim những người con xa quê. Lá vỗ về, lá ủi an tâm hồn con người giữa những bộn bề của đời sống. Chính vì thế mà tác giả nhắc đến người em gái: “Cô em gái của tôi sống xa Tổ quốc đã hai chục năm có lẻ. Mỗi lần gọi điện về, nó lại hỏi con đường ven Hồ Gươm mùa này lá đã rụng? Lạ thế! Mùa nào cũng hỏi như vậy.” Đếm ngày đếm tháng, chi bằng đếm mùa lá rụng. Con số làm sao hữu tình bằng sắc lá. Nhưng hình như muốn con người quên đi năm tháng nên lá cây Hà Nội cũng… khó hiểu vô cùng. Đỗ Phấn chỉ biết trả lời “đang ngổn ngang vàng rượi sắc lá ven hồ”. Nào lá của những cây sấu cổ thụ ở đường Đinh Tiên Hoàng, nào lá bằng lăng, lá bàng đỏ chói trên đường Lê Thái Tổ chứ thực ra chúng chẳng bao giờ rụng cùng một lúc với nhau. Bằng chứng là “Cây cơm nguội vàng và cây bàng lá đỏ... nhiều khi rụng lá cách nhau cả đến... một mùa thu!”. Câu văn được ngắt ra thành nhiều nhịp với các dấu “…” diễn tả sự kéo dài của thời gian và cảm xúc bất ngờ, lí thú của nhà văn.
Nhà văn miêu tả đến những cây xà cừ. Nói về loài cây này, nhà văn dành cho nó những lời “giận hờn”: “Những tưởng vô duyên đến như cây xà cừ là cùng. Cứ như người đàn bà phổng phao nhạt hoét. Chỉ được mỗi ưu điểm về kích thước. Và cũng lại là nhược điểm. Mùa mưa bão rất mất công cắt tỉa bớt cành phòng khi bị đổ”. Lối so sánh “như người đàn bà phổng phao nhạt hoét” khiến câu văn trở nên đậm tính khẩu ngữ đời thường. Chi tiết này cho thấy sự am hiểu tường tận, vốn sống phong phú của nhà văn về thiên nhiên và con người Hà Nội. Cây xà cừ đem lại cho Đỗ Phấn ấn tượng về kích thước to lớn, khiến mùa mưa bão con người trở nên vất vả vì phải tỉa bớt cành lá. Thế nhưng, “Thân hình cường tráng và lá cành rậm rạp đến thế của cây lại vô cùng yếu mềm trước một heo may đến sớm. Ngập cả lối đi những lá xanh chen lẫn lá vàng làm nên một mùa thu quyến rũ từng bước chân người”. Nhà văn dành cho thiên nhiên cái nhìn trân trọng, yêu thương, tinh tế phát hiện những vẻ đẹp nên thơ ở cây cối như người ta kĩ càng soi chiếu tâm hồn con người.
Cuối cùng, kết thúc tản văn, nhà văn nhấn mạnh tình cảm của mình dành cho “Cõi lá” mộng mơ của Hà Nội: “Miên man trong cõi lá mùa xuân thành phố, gương mặt ai ai cũng như có phần trẻ lại. Hay tự nhận rằng mình như thế?”. Quả thực, đối với nhà văn cũng như rất nhiều người con Hà Nội, những hàng cây, vòm lá đã trở thành một nét văn hóa mang đậm bản sắc của Thủ đô. Hà Nội luôn chộn rộn, luôn hối hả nhưng ngay giữa những phố phường đông đúc, ta vẫn luôn có những “Cõi lá” để ghé vào nghỉ ngơi, trẻ hóa tâm hồn.
Tản văn “Cõi lá” đậm chất trữ tình nên thơ, thể hiện rõ đặc trưng văn phong tài hoa, nhẹ nhàng, thanh lịch, tinh tế cùng tình yêu thiên nhiên, con người Hà Nội tràn đầy của Đỗ Phấn. Những từ láy giàu sức gợi hình, những lối so sánh và liên tưởng phong phú, ngôn ngữ trong sáng mà gần gũi, giọng văn tràn đầy cảm xúc đã góp phần giúp nhà văn miêu tả khung cảnh Hà Nội mùa xuân.
Cái tôi Đỗ Phấn thực sự là một cái tôi lãng mạn. Viết về Hà Nội có Thạch Lam, Vũ Bằng và nay ta có thêm Đỗ Phấn - “người sống đầy, nhớ dai. Nhiều thứ người ta quên, đọc văn Đỗ Phấn lập tức nhớ lại, nhớ tường tận và tỉ mỉ, thậm chí nhớ cả một quãng đời”.
Bài tham khảo Mẫu 2
Người văn sĩ Lê Minh Khuê đã từng nói: “Tình yêu Hà Nội của Đỗ Phấn không chỉ là những đường nét trên bức tranh, mà là những cảm xúc sâu thẳm, là sự gìn giữ và kể chuyện về vẻ đẹp thời gian”. Trong các tác phẩm của mình, từ tản văn, tiểu thuyết đến truyện ngắn, Đỗ Phấn luôn thể hiện tình yêu thương và kỷ niệm về Hà Nội xưa. Đặc biệt, tác phẩm “Cõi lá” là biểu tượng cho tình yêu của ông, nơi ông khéo léo mô tả vẻ đẹp của mùa xuân tại Thủ đô, hòa mình vào không khí thơ mộng, dịu dàng, khiến người đọc đắm chìm trong tình yêu thương đặc biệt dành cho Hà Nội.
Đỗ Phấn, một người nghệ sĩ không xa lạ với những người yêu nghệ thuật và văn hóa ở Việt Nam. Ông sinh năm 1956 tại Hà Nội, bắt đầu sự nghiệp văn chương từ nhỏ, sau đó theo học hội họa. Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội vào năm 1980, ông làm giảng viên tại Khoa Kiến trúc Đại học Xây dựng Hà Nội trong 9 năm. Sau một thời gian dành cho sự nghiệp giảng dạy, ông quay trở lại với văn chương vào khoảng năm 2005, nơi những tản văn về Hà Nội của ông nhận được sự ưa chuộng từ độc giả. Bút pháp nghệ thuật tinh tế và màu sắc độc đáo trong cách ông miêu tả đời sống người dân Thủ đô là điểm độc đáo nổi bật trong tác phẩm của họa sĩ Đỗ Phấn. Những câu chuyện nhỏ về cảnh vật, con người và nét văn hóa của Hà Nội được ông diễn đạt nhẹ nhàng qua từng trang viết. Những chi tiết vụn vặt, nhỏ bé và cũ kỹ như vòi nước công cộng, cửa hiệu giặt, đèn đường, nồi đất, nước giải khát, bún đậu mắm tôm... trở thành nguồn cảm hứng phong phú, giúp nhà văn tạo ra những câu chuyện Hà Nội độc đáo, đầy cảm xúc qua từng trang giấy. Đỗ Phấn thả mình vào việc kể chuyện, tâm tình thủ thỉ với độc giả từ chuyện xưa tới chuyện nay, từ xa tới gần, từ hiện đại trở về quá khứ. Những “lát cắt ký ức” ấy, khi được nhìn nhận tổng thể, rộng lớn, khiến độc giả ngạc nhiên về một Hà Nội thời xưa, tĩnh lặng, đẹp đẽ và tràn đầy cảm xúc.
Khởi đầu tác phẩm, mùa xuân hiện lên nhưng có vẻ nó đến muộn: “Bẽ bàng mùa xuân đến muộn. Khi ánh nắng đã chói lọi qua những lá non, báo hiệu mùa hè”. Mùa xuân chỉ đến khi tia nắng soi rọi qua những mầm lộc non mới nở. Mọi người trở nên hân hoan, phấn chấn, đặc biệt là trẻ con, hay có lẽ tác giả cũng đang cảm nhận như vậy: “Hay có lẽ mình cũng như thế?” Điều đó được thể hiện một cách tinh tế qua từ ngữ “Òa thức”, làm nổi bật hình ảnh con người và thiên nhiên thức tỉnh sau những ngày đông lạnh giá, chào đón một mùa xuân ấm áp và vui tươi. Trong không khí dễ chịu ấy: “Những chiếc lá non đu đưa trong gió tưởng như có tiếng chuông chùa huyền bí hoặc gọi về từ cõi thanh cao u tịch. Những đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá, nhiều người Hà Nội vô cùng bận rộn nhưng vẫn quay qua đoạn phố đông để ngắm nhìn những chiếc lá ngọt ngào như mật chảy tháng giêng”. Không khí trong lành, cảnh đẹp tươi mới và con người hạnh phúc, Hà Nội ơi! Hà Nội đẹp biết bao, làm cho những người ở xa phải nhớ mãi. Trong khoảnh khắc tiết trời dễ chịu đó, tác giả nhớ về người em gái ở xa: “Cô em gái của tôi sống xa Tổ quốc đã hai chục năm, mỗi lần gọi điện về, nó lại hỏi con đường ven Hồ Gươm mùa này lá đã rụng chưa? Lạ thật! Mỗi mùa cô ấy lại hỏi như vậy”. Không chỉ là cảnh đẹp, con người, mà cả cây cổ thụ đã trải qua hàng nghìn năm, chứng kiến biết bao biến động cũng khiến người ta nhớ mãi. Chúng vẫn đứng đó, mỗi mùa thay lá, những khoảnh khắc đơn sơ nhưng khiến người Hà Nội ở xa nhớ mãi. Muốn có cảm giác được sự biến đổi của từng chiếc lá, từng hàng cây, một điều nhỏ nhoi thôi, nhưng liệu bao giờ có thể thực hiện được. Một số người đã nhận xét rằng, có vẻ như những cây cổ thụ Hà Nội không quá quan tâm đến con người. Chứng cứ rõ nét nhất, in đậm trên thân cây “Những thân cây u sần mấu cục đầy thương tích do con người tạo ra”. Nhưng với tác giả, điều đó không có gì ngạc nhiên, vì chúng đã chia sẻ nhiều khó khăn cùng nhân dân Hà Nội, nếu “Những gốc sấu già Hà Nội lại nhẵn nhụi như những cây chò chỉ trên đường Hùng Vương?” thì mới là điều kì diệu. Lang thang trên con đường trong mùa xuân ấy, tác giả cảm nhận mọi khuôn mặt đều rạng rỡ, phấn khởi, đặc biệt là trẻ con, hay có lẽ tác giả cũng đang cảm nhận như vậy: “Hay tự nhận rằng mình như thế?” Nhà văn đặt ra câu hỏi đó.
Đỗ Phấn - người con trung thành với Hà Nội. Với tình cảm sâu sắc và tình yêu, ông đã giữ lại và chia sẻ thông qua những dòng văn. “Cõi lá” là minh chứng cho tình yêu này, nơi ông tài tình mô tả vẻ đẹp của mùa xuân tại Thủ đô, hòa mình vào không khí thơ mộng, dịu dàng, làm cho người đọc hiểu rõ hơn về tình cảm đặc biệt dành cho Hà Nội.
Bài tham khảo Mẫu 3
Tác phẩm Cõi Lá của nhà văn Đỗ Phấn đã mang lại cho độc giả những trải nghiệm sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu mạnh mẽ dành cho Hà Nội. Từ những câu thơ tuyệt vời về mùa xuân, tác giả đã xây dựng một bức tranh tươi mới, tràn đầy sức sống.
Ngay từ đầu tác phẩm, độc giả có thể cảm nhận những dấu hiệu của thiên nhiên và sự ngạc nhiên của tác giả trước thời tiết chuyển mùa. Ánh nắng chói lọi xuống những bông hoa non tươi sáng, cùng tiếng hót của chim én hòa quyện trong không khí mới mẻ. Cảnh mùa xuân rực rỡ được miêu tả chi tiết, tạo nên một không gian mơ mộng, đầy lãng mạn. Tác giả không chỉ mô tả vẻ đẹp tự nhiên mà còn tạo hình một bức tranh sống động về con người và sự thay đổi tâm trạng khi thời tiết chuyển mùa. Hà Nội thức giấc đầy sức sống sau những ngày đông lạnh buốt, những chiếc lá non đu đưa trong gió như tiếng chuông chùa huyền bí. Hình ảnh trẻ thơ vui đùa dưới bóng cây như thiên thần hạ xuống từ trời, tạo nên một không gian mới, đầy hy vọng và khát khao sống.
Chúng ta có thể thấy tác giả không chỉ tập trung vào việc miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn đào sâu vào tâm hồn con người và khám phá mối liên kết mật thiết giữa cây cỏ, lá cây và con người. Những biến đổi của thiên nhiên, như sự thay đổi màu sắc của lá, sự xuất hiện của mùa xuân, cũng đồng thời gợi lên trong con người những cảm xúc và ý thức về sự biến đổi của thế giới. Tác giả tinh tế chuyển đạt những cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc thông qua việc mô tả chi tiết những đặc điểm tinh tế của thiên nhiên và tương tác của con người với nó. “Nhiều người Hà Nội không có lý do gì cũng vòng qua đoạn phố đông chật... này chỉ để nhìn những chiếc lá ngọt ngào như mật chảy tháng Giêng” là hình ảnh nổi bật của người dân Hà Nội. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu mãnh liệt mà nhà văn Đỗ Phấn dành cho quê hương và con người Hà Nội.
Ý nghĩa và thông điệp của Cõi Lá không chỉ giới hạn ở việc tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên mà còn muốn đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu và sự chú ý đối với môi trường xung quanh. Tác phẩm như một lời nhắc nhở rằng chúng ta cần biết trân trọng và bảo vệ vẻ đẹp của thiên nhiên, để duy trì sự hòa hợp và phát triển bền vững giữa con người và thiên nhiên. Đặc biệt, tác giả còn thức tỉnh lòng yêu nước, tình yêu với từng mảnh đất quê hương sâu đậm trong lòng độc giả. Hà Nội hiện lên với những nét văn hóa truyền thống và đặc trưng, đúng chất của thành phố anh hùng, thủ đô của Việt Nam yêu dấu. Có thể nói, Đỗ Phấn đã thành công khi làm sống lại Hà Nội với những hình ảnh tuyệt vời đến thế, thấy rõ tình yêu thương mãnh liệt mà nhà văn dành cho quê hương và con người Hà Nội.
Từng đoạn văn, từng hình ảnh, tác giả đã vẽ nên một không gian thế giới xanh tươi, tràn ngập sức sống và ý nghĩa. Đó chính là câu chuyện về một Hà Nội quyến rũ và hấp dẫn, nơi mà cây lá và con người tương hợp, tạo thành một Cõi Lá tuyệt vời và trọn vẹn.