Rô bin sơn ngoài đảo hoang — Không quảng cáo

Soạn văn 9 tất cả các bài, Ngữ văn 9 , tổng hợp văn mẫu hay nhất


Rô bin sơn ngoài đảo hoang

Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn Anh trong thế kỉ XVIII. Ông nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết “Rô-bin-xơn Cru –xô”

RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG (Trích “Rô-bin-xơn Cru-xô”)

I.Giới thiệu một vài nét về Đi-phô, về ý nghĩa, giá trị tác phẩm “Rô-bin-xơn Cru-xô”.

1. Tác giả:

Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn Anh trong thế kỉ XVIII. Ông nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết “Rô-bin-xơn Cru –xô”.Cuộc đời ông là cuộc đời của mội con người với bao thăng trầm dữ dội. Đi buôn thua lỗ rồi vỡ nợ. Họat động chính trị, có lúc phải vào tù. Từ năm 60 trở đi, tài văn chương nở rộ với nhiều cuốn tiểu thuyết đặc sắc: “Rô-bin-xơn Cru-xơ' (1719 - 1720), “Đại úy Xinh – gơn- tơn (1720), "Môn Ph-lan  đơ” (1721), "Đại tá Giéc' (1721), ..v.v

Ông là một nhà văn tiến bộ, được đánh giá là mội nhà văn đi đầu trong họat động báo chí của nước Anh.

2. Ý nghĩa, giá trị

"Rô-bin-xơn Cru- xô” là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu viết dưới hình thức tự truyện của nhân vật Rô-bin-xơn. Rô-bin-xơn là một mẫu người lí tưởng rất đẹp như thích mạo hiểm, nhiều hoài bão có nghị lực phi thường, có tinh thần quả cảm, có khả năng và sức mạnh lao động sáng tạo để tự làm chủ cảnh ngộ, khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên nhiên. Tình yêu thương đồng loại là một nét rất đẹp trong tâm hồn con người bất hạnh này.

Qua nhân vật Rô-bin-xơn, nhà văn Đi-phô muốn khẳng đinh một ý tưởng: Bản lĩnh phi thường nhất định phát huy sức mạnh và trí tuệ để cải tạo hoàn cảnh, bắt thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người. Trước cảnh ngộ khắc nghiệt, phải biết sống và sống lạc quan.

Cuốn tiểu thuyết này đã ca ngợi tấm gương sáng của Rô-bin-xơn, rất hấp dân với lớp trẻ chúng ta.

II.Tóm tắt tác phẩm “Rô-bin-xơn Cru-xô".

Rô-bin-xơn là một thanh niên cường tráng, dũng cảm, ưa mạo hiểm, khao khát đi tới những miền đất lạ, thích vượt trùng dương. Chàng đi xuống tàu tại hương cảng Hơn, theo bạn di Luân Đôn. Tàu bị đắm lại Yác-mao. Chẳng nhụt chí trước tai họa, chẳng mềm lòng trước lời kêu khóc của mẹ cha, Rô-bin-xơn làm quen với một thuyền trưởng tàu buôn đi sang Chi-nê. Chuyến đầu tốt đẹp, chuyến thứ hai gặp cướp biển, bị bắt làm nô lệ ờ Xa-lê. Hai năm sau trốn thoát, lưu lạc sang Bra-xin lập đồn điền. Có một ít vốn, bốn năm sau lại cùng bạn xuống tàu buôn đi Chi-nê. Tàu gặp bão, bị đắm. Hầu hết đều chết, chỉ còn Rô-bin-xơn may mắn sống sót. Tàu đâm dạt vào một nơi gần đảo hoang. Chàng tìm cách lên đảo, làm lán trại, chuyên chờ mọi thứ còn lại trên tàu đắm, từ khẩu súng, viên đạn đến lương thực lên dào. Chàng săn bắn, kiếm ăn, trồng trọi, nuôi dê, làm đủ nghề như đan lát, nặn gốm v.v... để duy trì cuộc sống đơn độc trên đảo hoang.

Đến năm thứ 25, Rô-bin-xơn do tình cờ cứu được một tù binh da đen bị thổ dân dưa lên đảo toan hành hình. Chàng đặt tên cho nạn nhân là Thứ Sáu. Ít lâu sau, chàng lại cứu được 2 tù binh, một người Tây Ban Nha và một da den chính là người cha của Thứ Sáu, khi bọn thổ dân sắp hành hình. Hoang đảo đã có bốn người, cuộc sống đỡ cô đơn.

Một hôm, có một chiếc tầu ghé đến đậu ở cái vịnh nhỏ gần đảo hoang. Bon thùy thủ nổi loạn trói thuyền trưởng thuyền phó giải lên bờ định cho chết trên đảo. Chàng cứu giúp vị thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng trở về Tổ quốc có Thứ Sáu cùng đi. Tính ra đã 28 năm, hai tháng, 19 ngày Rô-bin-xơn đã sống trên hoang đảo.

III. Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” trích trong tác phẩm “rô-bin-xơn Cru-xô" của nhà  văn Anh quốc Đi-phô.

"Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang'' trích Chương 10 tiểu thuyết"Rô-bin-xơn Cru-xô" của nhà văn Đi-phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài “Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kì lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô”. Phiêu lưu và tự truyện là hai tính chất nổi bật của tác phẩm này. Đoạn trích “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” cũng như toàn bộ cuốn tiểu thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cảm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên giữa một thiên nhiên hoang dã ngoài hoang đảo.

Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa đảo hoang. Trước mắt vẫn là những chặng đường đầy thử thách. Anh nói: “Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phận của mình hơn một năm nữa". Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì kẻ lại những nếm trải cay đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bùa vây hoang đảo.

Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỉ. Cô đơn, thú dữ, bệnh tật, thiếu thốn, Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống. Vốn là một thanh niên ưa mạo hiểm, thích làm giàu, giờ đây hoàn cảnh khác nghiệt đã rèn luyện anh trở thành một con người “lành công”.Anh làm việc không mệt mỏi để không còn thì giờ "nghĩ ngợi vẩn vơ”. Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn, tích cực. Nhờ thế, anh đã trở thành một thợ nặn rất khéo, nặn được đủ thứ vật dụng, từ chum vại, bình vò đen bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái tẩu "tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liễu để đan lát. Đan thúng để quẩy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ dùng khác nữa. Nói lao động là sáng tạo, lao động là phát triển năng khiếu thẩm mĩ của con người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.

Ở đời, những kẻ yếu hèn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi trẻ đã trôi qua. Thế lực và chí khí đã hao mòn. Chặng cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm! 'Thuốc đắng cạn liều càng thấy đắng .Đường gay cuối chặng lại thêm gay" (Hồ Chí Minh). Đó là quy luật. Rô-bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: "Thuốc đạn ngày càng khan, thực phẩm cũng vơi dần .Bước sang năm thứ 11 ở trên đảo, anh đã bắt tay vào việc chăn nuôi, sau khi đã trồng lúa, trồng mạch thành công. Anh đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nôi nấng, thuần dưỡng dê. Chi hai năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn dần. Vừa giàu chí khí,  vừa giàu sáng tạo và khéo tay, anh đã biết vắt sữa, làm bơ, làm pho mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nói về đời sống vật chất của mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn với tất cả niềm vui ánh lên tự hào:

“Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn.

Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình - của con người - để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống cho mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rô-bin- xơn là một kì công. Sữa tươi, pho mát, bơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300 năm nay trên trái đất vô cùng khâm phục anh - một con người bất hạnh mà vĩ đại.

Phần sau của chương 10 nói về “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo " khi đi chu du trong vương quốc của mình Đây là bức chân dung tự họa rất hóm hỉnh và giàu giá trị nhân bản. Có một điều rất thú vị là trên cái “vương quốc'’ hoang đảo này, chỉ có một vị "chúa đảo” là Rô-bin-xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của mình. Ta có thể đi theo vị “chúa đảo” mà chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rất kì lạ, có thể làm kinh sợ” hay “bò ra mà cười” với ai đó khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu đêu”. Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê tà áo chấm ngang đầu gối” rất quý tộc; cái quần ngắn may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quằn đùi mà không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da dê để giắt cưa và búa. Hai cái túi bằng da dê “hình  dáng lạ lùng” để đựng đạn ghém và dựng thuốc súng, đeo lủng lảng bằng một dây da vòng qua cổ. Đây là những nét miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống cùa con người nơi hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trở nên “cổ quái ", kì dị. Vì thế chàng trai Rô-bin-xơn càng ngày càng "rám nắng, đen sạm lại”.Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đâm ra tua tủa như chổi xể". Trên mép là một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kì "vừa dài vừa rậm khác thường”. Chó vốn là một vật nuôi vô cùng tinh khôn. Rô-bin-xơn có một con chó như một người bạn, một vệ sĩ rất trung thành với chủ, từng chia ngọi sẻ bùi với chủ, mà nay, có lúc nhìn "lệ bộ" da dê, râu ria của Rô-bin-xơn, nó có vẻ “kinh ngạc khiếp sợ", nó nghi nghi hoặc hoặc”, sợ hãi, dò xét “cái con quái vật kì dị kia là bạn hay là thù”.Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa con người. Phải có một sức mạnh lo lớn lắm mới chế ngự và hạn chế được sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên nơi hoang đảo.

Nhân vật “Tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng nhưng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn ” đàng hoàng. Cái rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người một bài học: Dám sống và biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn “Rô-bin-xơn ngoài hoang đảo " là bài ca lao động sáng tạo hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm. Cái vĩ đại và đáng quý nhất ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.


Cùng chủ đề:

Phân tích truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
Phân tích và nêu cảm nghĩ về truyện Mùa cá bột của nhà văn Đỗ Chu
Phân tích đoạn thơ Kiều Nguyệt Nga bị bắt đi cống giặc ô Qua
Phân tích đoạn thơ Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua (Trích Truyện Lục Vân Tiên)
Phân tích đoạn thơ: Lục Vân Tiên gặp nạn
Rô bin sơn ngoài đảo hoang
Soạn Văn lớp 9 tập 1 chi tiết, soạn bài ngữ văn lớp 9 tập 1
Soạn Văn lớp 9 tập 2 chi tiết, soạn bài ngữ văn lớp 9 tập 2
Soạn bài Ánh trăng (chi tiết)
Soạn bài Ánh trăng trang 155 SGK Văn 9
Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính (chi tiết)