Soạn bài Nội dung và hình thức của văn bản văn học (chi tiết)
Soạn bài Nội dung và hình thức của văn bản văn học trang 127 SGK Ngữ văn 10. Câu 2.Phân tích tư tưởng bài thơ ”Mẹ và quả” của Nguyễn Khoa Điềm (xem bài thơ trong SGK trang 130)
Câu 1
Câu 1 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Đề tài của văn bản văn học là gì? Cho ví dụ.
Lời giải chi tiết:
* Khái niệm đề tài
- Đề tài là phạm vi cuộc sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình giá và thể hiện trong văn bản. Việc lựa chọn đề tài bước đầu bộc lộ khuynh hướng và ý đồ sáng tác của tác giả.
* Một số ví dụ về đề tài:
- Đề tài của truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) là cuộc sống và số phận bi thảm của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
- Đề tài của Truyện Kiều (Nguyễn Du) là cuộc đời và số phận bất hạnh của người phụ nữ trong bối cảnh xã hội phong kiến thối nát.
- Đề tài của bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) là tình đồng chí, đồng đội của những anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
- Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh lấy đề tài về mùa thu, cụ thể là thời khắc giao mùa.
- Đề tài của truyện Tấm Cám là xung đột giữa người tốt và người xấu, giữa thiện và ác.
Câu 2
Câu 2 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Chủ đề là g ì ? Cho ví dụ.
Lời giải chi tiết:
* Khái niệm về chủ đề:
- Chủ đề là vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. Chủ đề thể hiện sự quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức nhà văn với cuộc sống.
* Ví dụ chủ đề:
- Chủ đề của truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) là nhân cách, lòng tự trọng của người nông dân trước cái đói, sự nghèo khổ.
- Chủ đề của Truyện Kiều (Nguyễn Du) là thực trạng xã hội vô nhân đạo và số phận con người sống trong xã hội ấy. Vấn đề tình yêu, nhân phẩm, công lý... cũng được Nguyễn Du đặt ra để lý giải
- Chủ đề của tác phẩm Nam quốc sơn hà là niềm tự hào và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.
Câu 3
Câu 3 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Mối quan hệ giữa cảm hứng và tư tưởng trong văn bản văn học.
Lời giải chi tiết:
- Cảm hứng nghệ thuật và tư tưởng của văn bản có mối quan hệ mật thiết. Cách nêu lên nhận thức, lý giải chủ đề của tác giả bao giờ cũng chứa đựng trong đó những trạng thái tâm hồn, những cảm xúc cá nhân. Đây là mối quan hệ rất khó tách bạch.
Câu 4
Câu 4 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Hãy nêu ý nghĩa quan trọng của nội dung và hình thức trong văn bản văn học.
Lời giải chi tiết:
- Một văn bản văn học tốt về nội dung, đẹp về hình thức sẽ đáp ứng được những chức năng chủ yếu của văn học: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp... Không quan tâm đến nội dung, chỉ chú ý đến hình thức và ngược lại không quan tâm đến hình thức, chỉ chú ý đến nội dung đều không thể đạt yêu cầu của một văn bản văn học, do đó không thể thực hiện được các chức năng của văn học.
- Sự hoà hợp giữa nội dung tư tưởng cao đẹp và hình thức nghệ thuật hoàn mỹ là phẩm chất của các tác phẩm văn học ưu tú.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
So sánh đề tài của hai văn bản văn học Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan.
Trả lời:
a. Điểm giống nhau của hai văn bản văn học trên là đều viết về cuộc sống bị bóc lột, áp bức dẫn đến tình cảnh cơ cực của người nông dân ở nông thôn trước Cách mạng tháng Tám
b. Điểm khác nhau:
- Tắt đèn miêu tả cuộc sống của người nống dân ở nông thôn trong những ngày sưu thuế. Họ bị thúc sưu, bị dồn đến bước đường cùng phải bán con vẫn không xong, buộc phải vùng lên phản kháng.
- Bước đường cùng miêu tả cuộc sống hàng ngày diễn ra quanh năm suốt tháng của người nông dân. Họ bị áp bức, bóc lột, bị bọn địa chủ dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi để cướp lúa, cướp đất nên lâm vào bước đường cùng, không lối thoát, phải đứng lên chống lại.
Câu 2 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Phân tích tư tưởng bài thơ Mẹ và quả của Nguyễn Khoa Điềm (xem bài thơ trong SGK trang 130).
Trả lời:
a. Bài thơ có sự đan cài giữa hai thứ quả được vun trồng, chăm sóc từ bàn tay mẹ. Đó là quả bí, quả bầu... trong vườn mẹ và những đứa con của mẹ. Chuyện bí, bầu chỉ là cái duyên cớ để men theo đó nhà thơ nói chuyện những đứa con. Tư tưởng của bài thơ cứ sáng dần qua từng khổ thơ.
b. Khổ thứ nhất là suy ngẫm mang tính khái quát về những mùa quả của mẹ. Khổ thứ hai dựng lên một sự tương phản thú vị và có ý nghĩa sâu sắc giữa "chúng tôi" và "bầu, bí". Chúng tôi thì "lớn lên” bầu bí thì "lớn xuống". Một liên tưởng thú vị xâu chuỗi hai hình ảnh lại trong một ý nghĩa vô cùng sâu sắc: những quả bí, quả bầu giống hình thù những giọt mồ hôi của mẹ. Như vậy, dù "lớn lên” như chúng tôi, hay "lớn xuống" như bầu bí cũng từ bàn tay mẹ, mồ hôi và nước mắt của đời một người mẹ nghèo cơ cực, chắt chiu.
c. Hai khổ thơ trước là bước đệm để kết lại bằng một khổ thơ làm sáng bừng tư tưởng cả bài:
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái
Tôi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Cái giật mình "hoảng sợ" của người con đã nói lên tất cả. Người con "hoảng sợ" nghĩ đến "ngày bàn tay mẹ mỏi", ngày giàn bầu bí thì vẫn cao mà lưng mẹ còng xuống, ngày mẹ gần đất xa trời mà bầu bí chúng tôi "vẫn còn một thứ quả non xanh". Người con thương mẹ, khắc ghi công lao sinh thành, dưỡng dục của mẹ và mong được sớm đáp đền. Đó là ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của bài thơ.