Soạn bài Thực hành đọc Mộng đắc thái liên SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - Chi tiết — Không quảng cáo

Soạn văn 11, ngữ văn 11 kết nối tri thức với cuộc sống Bài 6: Nguyễn Du – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng


Soạn bài Thực hành đọc Mộng đắc thái liên SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết

Đề tài, cảm hứng sáng tác. Thể thơ ngũ ngôn và thi liệu được sử dụng.

Nội dung chính

Mộng đắc thái liên khắc họa nội dung chính về khung cảnh hái sen, con người và công việc hái sen, từ bông hoa sen, tác giả nêu lên những triết lí về cuộc sống con người.

Câu 1

Câu 1 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :

Đề tài, cảm hứng sáng tác.

Phương pháp giải:

Xác định chủ đề của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

- Đề tài: tả cảnh hái sen

- Cảm hứng sáng tác: bài thơ lấy nguồn cảm hứng từ giấc mơ kỳ lạ của tác giả.

Xem thêm
Cách 2

- Đề tài: hoa sen

- Cảm hứng sáng tác: sáng tác thời làm quan với nhà Nguyễn, năm mơ thấy hái sen ở Hồ Tây hồi còn trẻ sống ở Thăng Long. Có sách nói rằng "cô hàng xóm" trong bài thơ này là Hồ Xuân Hương, dựa theo một bài thơ coi như lưu bút của Hồ Xuân Hương, đó là bài thơ nôm gửi "Cần Chánh Điện Học Sĩ Nguyễn Hầu". Bài Mộng Đắc Thái Liên của Thi hào Nguyễn Du (Tập Nam Trung Tạp Ngâm bài thứ 80 đến 84) gồm có năm đoạn. Ðặc biệt, khúc III nói đến một cô gái trẻ hàng xóm đi hái sen cùng tác giả. Tác giả còn đang phân vân không biết cô ta có đến không thì đã chợt nghe tiếng cười nói của cô ấy.

Xem thêm
Cách 2

Câu 2

Câu 2 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :

Thể thơ ngũ ngôn và thi liệu được sử dụng.

Phương pháp giải:

Chú ý vào thể thơ và thi liệu được sử dụng.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

- Thể thơ ngũ ngôn: là một thể thơ Đường, gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ, mỗi câu sẽ tương ứng đề, thực, luận, kết. Về vần, thể thơ này thường gieo vần ở chữ cuối câu 1, 3 hoặc 2, 4.

- Thi liệu được sử dụng: từ cổ (quần, xung dung…), điển tích (Hồ Tây), điển cố (cô hàng xóm chỉ người con gái đẹp; ngó sen chỉ nỗi niềm tương tư khó đứt như tơ sen…)

Xem thêm
Cách 2

- Thể thơ ngũ ngôn

- Thi liệu được sử dụng: hoa sen, Hồ Tây, cô hàng xóm

Xem thêm
Cách 2

Câu 3

Câu 3 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :

Chất trữ tình và các yếu tố nghệ thuật độc đáo.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ bài thơ để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

Chất trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua hình ảnh đi hái sen và cách hái sen sao cho đúng. Đó là hình ảnh cô gái xinh đẹp động lòng người khi hái sen trên Tây Hồ, khung cảnh vui tươi mà chan chứa hương thơm. Qua đó, ông còn thể hiện những triết lý nhân sinh sâu sắc về kiếp người qua hình ảnh hoa sen, ngó sen… Việc sử dụng thể thơ ngũ ngôn kết hợp với lời thơ giản dị nhưng ấn tượng đã giúp ông tái hiện một cách chân thực, đầy đủ hình ảnh hoa sen trên Tây Hồ, và nó cũng phần nào giúp người đọc hiểu hơn về triết lý nhân sinh ẩn sâu trong đấy.

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

Chất trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua hình ảnh đi hái sen và cách hái sen sao cho đúng.

Việc sử dụng thể thơ ngũ ngôn kết hợp với lời thơ giản dị nhưng ấn tượng đã giúp ông tái hiện một cách chân thực, đầy đủ hình ảnh hoa sen trên Tây Hồ, và nó cũng phần nào giúp người đọc hiểu hơn về triết lý nhân sinh ẩn sâu trong đấy.

“Mộng đắc thái liên” có thể xem là một giấc mộng đẹp hiếm hoi trong thơ Nguyễn Du. Nhưng nó mới huyền ảo và ngắn ngủi làm sao. Nhà thơ có hẹn với cô láng giềng đi hái sen sáng sớm. Giữa lai láng nước Hồ Tây, trên chiếc thuyền con, nhân vật trữ tình hồi hộp chờ cô láng giềng. Thể thơ năm chữ với những câu thơ ngắn tựa như giấc mơ kia cũng ngắn ngủi, bất định. Nguyễn Du như muốn nối dài thêm câu chữ, nối dài thêm giấc mơ. Việc dùng nhiều thanh bằng trong bài thơ có thể xem như một cố gắng níu kéo của thi nhân. Gần đạt đến mức tuyệt đối thanh bằng, đôi câu thơ dẫn dắt hồn thơ qua điệp trùng những vang ngân không cùng. Nhờ đó giấc chiêm bao thêm thanh và thêm nhẹ, lan toả mênh mang.

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

Câu 4

Câu 4 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :

Tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn và tinh tế của nhà thơ.

Phương pháp giải:

Chú ý vào cảm xúc của nhà thơ.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

Qua lăng kính thi nhân đầy lãng mạn, cùng những tâm sự trĩu nặng của mình cùng với hình ảnh hoa sen thuần khiết, tác giả không chỉ muốn thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà qua đó, ông muốn gửi gắm đến con người về những triết lý nhân sinh sâu sắc như đừng chỉ coi trọng cái đẹp mà quên đi những giá trị tốt đẹp tiềm ẩn của những thứ khác như con người, chỉ coi trọng hoa sen mà quên đi những bộ phận khác của hoa sen, nó cũng đẹp và đáng quý như hoa sen vậy.

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

Qua lăng kính thi nhân đầy lãng mạn, cùng những tâm sự trĩu nặng của mình cùng với hình ảnh hoa sen thuần khiết, tác giả không chỉ muốn thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà qua đó, ông muốn gửi gắm đến con người về những triết lý nhân sinh sâu sắc

Bài thứ nhất tả cảnh chung, khái quát, về cảnh hái sen ở Tây Hồ: Xắn gọn quần cánh bướm/ Chèo thuyền con hái sen (Khẩn thúc giáp điệp quần/ Thái liên trạo tiểu đình).

Đấy là tả người đi hái sen, chèo chiếc thuyền nhỏ mà lướt nhẹ trên mặt hồ, luồn qua những hoa sen và lá sen. Nhưng ai là người Xắn gọn quần cánh bướm ở đây? Chắc là những cô gái trẻ, con nhà tử tế quanh hồ mà tác giả quan sát thấy. Có nữ tú, ắt có cả nam thanh, trong đó có thi sĩ đa tình đa cảm Tố Như…

Hai câu tiếp theo tả nước hồ đầy lai láng và xanh trong, in rõ bóng người hái sen. Mấy nét chấm phá về cảnh và người hái sen Tây Hồ trong một ngày đẹp trời, bình yên, thơ mộng. Có cảnh và có người trong cảnh, nhưng tả người mới chỉ ở vài điểm nhấn, ví như Giáp điệp quần, tức quần lụa mỏng, tựa như cánh bướm phất phơ và hình người hái sen in dưới mặt nước hồ trong, thanh thoát.

Bài thứ hai, tả cụ thể công việc hái sen, đương nhiên có cả mục đích của việc hái sen nữa. Hái hoa sen, và cả gương sen, cả hoa và gương đều bỏ lên thuyền. Thế thôi, chưa có gì đặc biệt. Những người dân ven Hồ Tây, nhiều gia đình lấy việc hái sen (cả hoa và gương) làm kế sinh nhai. Nhưng cũng có những người khá giả, lại lấy việc hái sen chủ yếu để tiêu khiển, như một thú chơi tao nhã. Với tác giả bài thơ này, thì Hoa để tặng người mình sợ /Gương để tặng người mình thương (Hoa dĩ tặng sở úy/ Thục dĩ tặng sở liên). Hai câu sau thấy chứa nhiều uẩn khúc trong tình ý. Hoa sen trắng hay hoa sen hồng, đều đẹp. Hương sen thơm nhẹ, tinh khiết. Đó là một loài hoa quý xưa nay, còn có cái tên rất đẹp là hoa phù dung. Hoa ấy hái về dùng để tặng người mình yêu quý, trân trọng, còn để cắm vào bình hoa trong nhà mình để thưởng lãm, hoặc dâng lên bàn thờ tiên tổ, ấy là lẽ thường.

Bài thứ ba, cũng tả cảnh hái sen, nhưng mà ở một chi tiết khác. Thi sĩ sáng nay đi hái sen, vốn đã có hẹn với một cô nàng hàng xóm nào đó, chắc là xinh đẹp trẻ trung. Hẹn rồi đấy, nhưng mà không biết bóng giai nhân ấy đã đến chưa (bất tri lai bất tri)? Chưa thấy người đẹp hiển hiện trước mắt, nhưng cách hoa nghe cười nói (cách hoa văn tiếu ngữ), thì hình như đã thấy xốn xang trong dạ rồi. Sen tốt tươi, bạt ngàn bông thắm lá xanh, chưa nhìn thấy người hái sen, nhưng tiếng cười nói vui vẻ của người hái sen lẫn trong những bông thắm lá xanh, thật tuyệt. Chỉ tả tiếng cười nói của những người hái sen thôi, đã thấy rõ cái đẹp hòa trong cái đẹp, thiên nhiên và con người đằm thắm trữ tình, sinh động, thanh thoát…

Hai bài thơ còn lại của liên khúc hái sen, dành cho việc triết luận của tác giả. Hoa sen ai cũng ưa/ Cuống sen chẳng ai thích (Cộng tri liên liên hoa/ Thùy giả liên liên cấn), cũng là sự thường tình ở đời. Hoa sen để thưởng lãm, còn như thân cây sen, mấy ai dùng làm gì, thường bỏ đi. Nhưng có một sự thật là thân cây sen có những sợi tơ bền / Vấn vương không dứt được. Nghĩa là thân cây sen vẫn có giá trị sử dụng riêng, người đời ít biết, nên thường coi rẻ. Nghĩa là hoa có giá trị của hoa, gương sen có giá trị của gương, lá sen có giá trị của lá, còn thân cây sen vẫn có giá trị của thân…Ví như ở đời, cao thấp khác nhau, nhưng ai cũng có giá trị của riêng mình, đóng góp của riêng mình, chớ nên xem thường, chớ nên có thái độ “Hạ mục vô nhân”. Phải chăng, Nguyễn Du muốn mượn ý này, để bàn về quan niệm nhân sinh, để cảnh tỉnh người đời?

Bài cuối cùng, lại nêu một ý tưởng khác, cũng xoay quanh hình ảnh sen và công việc hái sen. “Lá sen màu xanh xanh / Hoa sen dáng xinh xinh, điều ấy ai cũng biết cả rồi. Nhưng mà Hái sen chớ đụng ngó / Năm sau hoa chẳng sinh” (Thái chi vật thương ngẫu/ Minh niên bất phục sinh), thì đó lại là lời nhắc nhở ân cần của tác giả. Ngó sen là biểu tượng của sự sinh sôi, biểu tượng của tương lai, phải biết trân trọng, giữ gìn. Đấy chính là minh triết của vũ trụ, đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân văn của bậc trí giả và tâm hồn nhân hậu của thi nhân….

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

Cùng chủ đề:

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 112 SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Ca nhạc ở Miệt Vườn SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Cây diêm cuối cùng SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Cải ơi SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Chí khí anh hùng SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Mộng đắc thái liên SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Nàng Ờm nhắn nhủ SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Prô - Mê - Tê bị xiềng SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Thời gian SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Thực hành đọc Tiếp xúc với tác phẩm SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết
Soạn bài Tôi có một ước mơ SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức - Chi tiết