Soạn bài Viết bài nghị luận về một hiện tượng đời sống SGK Ngữ văn 11 tập 2 Cánh diều - chi tiết
Xem lại văn bản Tôi có một giấc mơ và cho biết: - Hiện tượng đời sống bài viết đưa ra là gì? - Vì sao tác giả lại viết về hiện tượng đó? - Mục đích của người viết là gì?
Định hướng 1
Câu 1 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Xem lại văn bản Tôi có một giấc mơ và cho biết:
- Hiện tượng đời sống bài viết đưa ra là gì?
- Vì sao tác giả lại viết về hiện tượng đó?
- Mục đích của người viết là gì?
Phương pháp giải:
Gợi lại kiến thức về văn bản đã học, dựa vào nội dung chính để xác định được hiện tượng đời sống.
Lời giải chi tiết:
Hiện tượng đời sống bài viết đưa ra đó là sự phân biệt màu da ở Mỹ.
Định hướng 2
Câu 2 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Xem lại văn bản Tôi có một giấc mơ và cho biết: Vì sao tác giả lại viết về hiện tượng đó?
Phương pháp giải:
Gợi lại kiến thức về văn bản đã học, dựa vào nội dung chính để xác định được hiện tượng đời sống.
Lời giải chi tiết:
Tác giả viết về hiện tượng phân biệt màu da vì hiện thực xã hội ở Mỹ người da đen bị đối xử phân biệt, không có sự công bằng bình đẳng. Họ bị đè nén, đàn áp mạnh mẽ.
Định hướng 3
Câu 3 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Xem lại văn bản Tôi có một giấc mơ và cho biết: Mục đích của người viết là gì?
Phương pháp giải:
Gợi lại kiến thức về văn bản đã học, dựa vào nội dung chính để xác định được mục đích.
Lời giải chi tiết:
Mục đích của người viết là kêu gọi mọi người chung tay, đoàn kết đứng lên để lấy lại quyền bình đẳng công bằng, để xã hội không còn những bất công, đàn áp và khổ đau.
Thực hành viết
Câu hỏi (trang 138, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Viết bài văn nghị luận nêu ý kiến của em về hiện tượng sính dùng tiếng nước ngoài trong giao tiếp hàng ngày của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ các bước viết bài văn về hiện tượng xã hội, tìm hiểu kĩ về hiện tượng thích dùng tiếng nước ngoài của bộ phận giới trẻ.
Lời giải chi tiết:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Thế nhưng, hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực.
Tiếng Việt có một hệ thống chuẩn mực, quy tắc chung về phát âm và chữ viết, cách dùng từ, đặt cậu,.. Nói hoặc viết đúng chuẩn mực, đúng quy tắc của tiếng Việt sẽ đảm bảo được sự trong sáng của lời nói. Sự trong sáng của tiếng Việt không cho phép dung nạp tạp chất. Do đó, tiếng Việt không cho phép pha tạp, lai căng, những yếu tố khác. Vậy mà thực tế hiện nay, ta có thể dễ dàng bắt gặp giới trẻ kết hợp cách nói hay viết giữa tiếng ta với tiếng nước ngoài theo kiểu “nửa nạc nửa mỡ”, họ sử dụng tiếng nước ngoài một cách tuỳ tiện, thiếu ý thức, trong một câu tiếng Việt thường chêm vào một vài từ nước ngoài. chẳng hạn : “Trông con bé đó kute quá”, “Điện thoại sắp hết tiền rồi làm sao gọi cho honey đây”, “Anh ấy handsome thật!”, “Các superstar thích xài mobile loại xịn”, “ Idol của tao kìa”, rồi nào là hotboy, hotgirl, …
Đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt, nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việt như Internet, trang web…, song đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài (chủ yếu là chữ Anh) thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng như show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)… một cách tự nhiên như thể đó là những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu.
Có ý kiến ngụy biện cho rằng hiện tượng này nên khuyến khích vì đấy là một cách học và thực hành tiếng Anh, một công cụ không thể thiếu để hội nhập quốc tế. Nhưng thực ra, muốn thực hành ngoại ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nói, viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam… Còn khi nói và viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán là người “hay chữ lỏng” và có câu nói “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.
Hồi nước ta còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng khá phổ biến và được gọi là nói “tiếng lai”. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào cứu quốc, nâng cao tinh thần dân tộc thôi thúc sinh viên, học sinh từ bỏ cách nói chen tiếng Pháp. Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây thường tự mình nêu gương sáng và thường nhắc nhở mọi người tránh bệnh nói chữ, sính dùng từ gốc Hán khi có thể diễn đạt bằng tiếng Việt. Ví dụ như vì sao báo chí, hay thậm chí cả trong văn bản chính thức của nhà nước, thường dùng cụm từ “người tham gia giao thông” thay cho “người đi đường”?
Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ, Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai cũng là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Chính vì vậy việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đang là công việc của tất cả mọi người đặc biệt là giới trẻ hiện nay. Chúng ta phải biết rằng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của mình, vì vậy phải làm cho nó ngày càng phong phú, giàu đẹp hơn, phải biết phát huy tính văn hoá của dân tộc không nên làm mất đi vẻ đẹp và sự trong sáng của tiếng Việt, không nên quá lạm dụng tiếng nước ngoài.
Bài tập 1
Câu 1 (trang 140, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Tìm từ ngữ phù hợp với những chỗ trống.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn, tìm từ ngữ phù hợp, chú ý liên kết các câu và làm sáng tỏ luận điểm.
Lời giải chi tiết:
(1) tiếng nước ngoài ; bye bạn, chào you.
(2) anh ấy handsome thật; mình là honey của anh ấy ; nhóm ấy toàn các anh chuẩn men.
(4) từ tiếng Việt khá phổ biến; cấu trúc câu tiếng Việt.
(5) và tiếng Việt trong cấu trúc lời thoại.
(6) lời xin lỗi là sorry nha ; quên cả từ tiếng Việt tương ứng.
Bài tập 2
Câu 2 (trang 140, 141, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Đọc đoạn văn sau và cho biết: Người viết đã bác bỏ những luận điểm hoặc luận cứ gì? Bác bỏ bằng cách nào?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn, tìm những câu văn là luận điểm hoặc luận cứ.
Lời giải chi tiết:
- Bác bỏ: Truyện Kiều là quốc hoa, quốc hồn là quốc túy của Việt Nam…
- Bác bỏ bằng chính những thực tế chứng minh về lịch sử dân tộc Việt Nam.