Trình bày suy nghĩ về vấn đề tình yêu tổ quốc thông qua tác phẩm Hịch tướng sĩ lớp 8 — Không quảng cáo

Tổng hợp 50 bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra t


Trình bày suy nghĩ về vấn đề tình yêu tổ quốc thông qua tác phẩm Hịch tướng sĩ lớp 8

1. Mở đoạn: - Giới thiệu đôi nét về tác phẩm Hịch tướng sĩ. - Sơ lược về về vấn đề tình yêu tổ quốc qua tác phẩm Hịch tướng sĩ.

Dàn ý chi tiết

1. Mở đoạn:

- Giới thiệu đôi nét về tác phẩm Hịch tướng sĩ.

- Sơ lược về về vấn đề tình yêu tổ quốc qua tác phẩm Hịch tướng sĩ.

2. Thân đoạn:

Giải thích về lòng yêu nước

Biểu hiện của lòng yêu nước, trong tác phẩm Hịch tướng sĩ

Tại sao mỗi người lại cần có lòng yêu nước

Mỗi người sẽ thể hiện tình yêu nước của mình như thế nào?

Lòng yêu nước cần thể hiện đúng nơi đúng lúc như thế nào và hậu quả khi không biết cách thể hiện lòng yêu nước của bản thân mình

Liên hệ bản thân

3. Kết đoạn:

- Khái quát lại cảm nghĩ của bản thân về vấn đề tình yêu tổ quốc thông qua tác phẩm Hịch tướng sĩ.

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Hịch tướng sĩ thể hiện tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc của Trần Quốc Tuấn, thông qua đó thể hiện ý chí quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược. Ông viết: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Đó là một tấm lòng trăn trở, đau xót, xót xa cho cảnh đất nước bị voi ngựa giày xéo. Câu nói ấy thâu tóm được tinh thần chung của bài hịch, khẳng định được tấm lòng yêu nước thiết tha của Trần Quốc Tuấn đối với non sông, đất nước, đồng thời là sự căm thù giặc sâu sắc.

Trong cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc ấy, chứng kiến ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ..., người luôn đau đớn với vận mệnh quốc gia như Trần Quốc Tuấn không thể làm ngơ. Dù biết trăm thân có phải chịu những đau đớn: trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa cũng cam lòng. Người đọc cảm nhận được khí phách của vị thống lĩnh. Cũng chính bởi niềm quả cảm ấy gây xúc động mạnh mẽ, binh sĩ sẽ chiến đấu và tất yếu là chiến thắng dưới sự lãnh đạo tài ba của một vị tướng yêu nước nồng nàn, tha thiết.

Hịch tướng sĩ phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đọc bài hịch, chúng ta ý thức sâu sắc hơn một điều rằng, yêu nước mãi mãi là tình cảm thiêng liêng, đáng trân trọng dù trải qua bao vất vả, thăng trầm, và hòa bình hạnh phúc là cái đích vươn tới của tất cả mọi con người, mọi quốc gia trên thế giới.

Bài sêu ngắn Mẫu 2

Được sống những ngày tháng sôi sục năm 1284 – 1285 mà đọc Hịch tướng sĩ, hẳn không ai cầm được nước mắt. Kết thúc bài hịch, Trần Quốc Tuấn giãi bày: Ta viết bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.

Phải chăng ông mong muốn người đọc, người nghe không chỉ thức tỉnh bởi những lí lẽ chặt chẽ, sắc bén mà còn thấm thìa, xúc động bởi tấm lòng người chủ soái đang bồi hồi lo lắng từng giờ từng phút cho vận mệnh sống còn của cả non sông Đại Việt. Ngày ấy, văn chương nghị luận chưa hoàn toàn tách khỏi lịch sử, triết học, chính trị (văn – sử – triết bất phân); văn nghị luận chưa tách khỏi văn tự sự, trữ tình. Thuyết phục bằng trí tuệ, lí lẽ, lập luận…bằng hình ảnh, sinh động và xúc cảm chân thành, mãnh liệt.

Có đoạn văn nhói lên đau đớn, xót xa, có đoạn ngùn ngụt căm hờn, lời văn nghẹn ngào, sôi sục. Mỗi chữ như một lời thề thiêng liêng, một quyết tâm sắc nhọn.

Đối với tì tướng, trái tim lớn ấy lại nhân hậu vô cùng. Sự quan tâm, chăm sóc của ông thật là tỉ mỉ, cụ thể, kịp thời, từng việc, từng người, nơi này, nơi kia, lúc này, lúc khác… như cha con, anh em ruột thịt một nhà. Khi phê phán, trách móc, chế giễu, sỉ nhục tướng sĩ dưới quyền khá nặng nề, vẫn thấy tấm lòng từ ái, độ lượng, bao dung và tầm nhìn xa rộng của Đại vương. Đặc biệt, ông luôn gắn mình với tướng sĩ: ta cùng các ngươi, chẳng những thân ta…mà các ngươi…cùng sống chết, cùng đau xót biết chừng nào, cùng vui cười… cao hơn tất cả cái sống, cái chết của mỗi người là khối đoàn kết toàn quân, toàn dân mà Hưng Đạo vương là người có công đầu xây đắp. Đó chính là sức mạnh tinh thần quan trọng nhất để quân dân nhà Trần quyết đánh và quyết thắng.

Càng về cuối bài hịch, giọng văn càng thiết tha, mạnh mẽ. Từ tấm lòng, tình cảm chuyển dần sang ý chí, quyết tâm. Vị chủ soái đã thể hiện quyết tâm sắt đá, ý chí lớn lao, tin tưởng ở tướng sĩ, tin ở chính mình. Những lời răn dạy càng cụ thể, thiết thực: thái độ ứng xử, hành động khẩn trương… Ông đã truyền cho toàn quân khí thế Sát Thát hừng hực, một niềm tin tất thắng không gì lay chuyển nổi.

Bài siêu ngắn Mẫu 3

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, những trang sử hào hùng đã ghi lại biết bao tấm gương của các anh hùng, những vị lãnh đạo kiệt xuất. Họ đã cống hiến cả cuộc đời cho nền độc lập nước nhà… và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một trong số những vị anh hùng như thế! Điểm nổi bật ở Ông là tấm lòng thiết tha yêu nước của Tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện cao độ khi ông tố cáo tội ác của quân thù bằng lời lẽ đanh thép. Với bản chất ngang tàng, hống hách, chúng không chỉ coi thường dân ta, mà còn sỉ nhục triều đình từ vua đến quan: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Chúng ta càng căm tức bọn giặc hơn nữa khi chứng kiến hành động rất tàn bạo, tham lam, nhằm vơ vét của cải của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiểu Vân Nam Vương mà thua bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Thật là một bọn cầm thú, chẳng khác nào dê, hổ đói, cú diều. Vậy mục đích của tác giả khi tố cáo tội ác của quân thù là khích lệ lòng căm thù giặc của tướng sĩ, của toàn dân và khơi gợi nỗi nhục mất nước của 1 dân tộc.

Lòng yêu nước là một trong những giá trị quý báu của dân tộc Việt Nam, biểu thị tình cảm yêu thương và trách nhiệm bảo vệ đất nước của mỗi người. Với người Việt, "lòng yêu nước" đã trở thành một lẽ đương nhiên vì truyền thống yêu thương, tình người, đoàn kết và biết ơn. Đây là một giá trị được thể hiện rõ qua những hình ảnh anh hùng của dân tộc Việt Nam. Trước nạn ngoại xâm, quốc gia dân tộc đang lâm nguy. Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi lo lắng đó được ông bày tỏ với binh sĩ: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành niềm uất hận ngàn thâu, chứa chan trong lòng khi chưa rửa được nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉ căm thù giặc mà trần Quốc Tuấn còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân.

Bài tham khảo Mẫu 1

Lòng yêu nước vốn là cảm hứng xuyên suốt chiều dài văn học. Được viết trong thời điểm giặc Mông Nguyên sắp xâm lược nước ta lần 2, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã bộc lộ sâu sắc tình yêu nước và tinh thần trách nhiệm của vị chủ tướng trước giặc ngoại xâm.

Lòng yêu nước là tình yêu đối với quê hương, đất nước; nỗ lực cố gắng không ngừng để dựng xây và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Lòng yêu nước là tình cảm cao cả, thiêng liêng của mỗi người dành cho quê hương đất nước. Đó là yêu sông, yêu núi, yêu làng, yêu xóm, yêu người dân sống trên mảnh đất hình chữ S. Hịch tướng sĩ là áng văn tràn đầy tinh thần yêu nước. Tình yêu nước ấy được bộc lộ rõ nét qua lòng căm thù giặc sâu sắc. Bằng những từ ngữ giàu hình ảnh, biện pháp ẩn dụ, hình thức đối ngẫu, quân giặc hiện lên trong sự hống hách ngang ngược và vô lối, tham lam: đi lại nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, vét của kho có hạn. Từ việc vạch trần bản chất xấu xa, đê hèn của quân giặc, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù giặc sâu sắc và lòng tự tôn dân tộc.

Quân thù hung ác nhưng ý chí chiến đấu của nhân dân càng phải quyết tâm. Tình yêu nước nồng nàn và tha thiết đó là vũ khí để chiến thắng kẻ thù. Bên cạnh ý thức về vận mệnh của quốc gia, dân tộc trước họa xâm lăng, Trần Quốc Tuấn còn có tinh thần trách nhiệm đối với sự bình yên của non sông, đất nước. Qua nghệ thuật ẩn dụ, so sánh và lối nói khoa trương, phóng đại, ta phần nào thấu hiểu được tâm trạng đau đớn đến tột độ của vị chủ tướng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Mượn những hình ảnh so sánh, ẩn dụ có phần khoa trương, phóng đại thường dùng trong văn chương cổ, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tâm trạng của mình. Đó là tâm trạng đau đớn, luôn lo lắng, dằn vặt vì vận mệnh của quê hương, đất nước. Suy cho cùng, tâm trạng ấy cũng xuất phát từ tinh thần trách nhiệm cao cả của tác giả, không thể nhắm mắt làm ngơ trước nguy cơ đất nước rơi vào tay kẻ thù.

Với lòng căm thù giặc sục sôi, tác giả khao khát được trừng trị quân giặc bằng những hình thức ghê gớm nhất: xả thịt, lột da, uống máu mới xả hết được lòng căm giận. Mỗi dòng, mỗi chữ ở đây đều là một tấc lòng và tâm huyết của vị Quốc công tiết chế, nó không khỏi làm cho người đọc có niềm xúc động, cảm thông sâu sắc. Từ tinh thần trách nhiệm và bổn phận của mình, tác giả nêu cao ý chí quyết chiến, sẵn sàng hy sinh để báo ơn và bảo vệ đất nước. Tinh thần ấy được ông truyền sang tướng sĩ để khích lệ ý chí chiến đấu của họ. Ông thể hiện một thái độ rõ ràng, dứt khoát: “Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?".

Đối với binh lính dưới quyền, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị chủ tướng mà còn như một người cha, luôn quan tâm, lo lắng cho họ: nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi, cùng đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, xông pha vào trận mạc. Nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người, ông cũng không quên phê phán những trò tiêu khiển, thú ăn chơi hưởng lạc và những suy nghĩ cá nhân ích kỉ sẽ để lại những hậu quả khôn lường đối với gia đình, đất nước và chính bản thân họ. Từ đó mà ông khuyên họ nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực luyện tập, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.

Bài hịch kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và văn chương đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của vị chủ tướng, cũng là của dân tộc ta trong thời đại bấy giờ. Vì vậy, tác phẩm mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử dân tộc.

Bài tham khảo Mẫu 2

Trần Quốc Tuấn tức hiệu là Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất, văn võ song toàn, có công lớn với dân tộc ta. Vào năm 1285, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, ông đã viết "Hịch tướng sĩ" nhằm khích lệ, kêu gọi các tướng sĩ đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Qua bài hịch, ta thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết của vị chủ tướng tài ba.Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài hịch được thể hiện qua những cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau.

Ngay từ câu văn đầu tiên, Trần Quốc Tuấn đã đưa ra các tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khơi gợi lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ. Trong đó có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng; lại có cả những người bình thường, những kẻ bề tôi xa như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Cách nêu gương như vậy thật toàn diện! Nó có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa "lưu danh sử sách, cùng trời đất, muôn đời bất hủ". Lịch sử nước Nam không thiếu anh hùng nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Điều đó thể hiện một cái nhìn rất phóng khoáng của ông: không cần phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng được ca ngợi.

Sau khi nêu những tấm gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế "thời loạn lạc", buổi "gian nan của đất nước" cũng là lúc lòng yêu nước của ông thể hiện cao độ. Đọc tác phẩm, ta cảm nhận được những lời lẽ đanh thép, vạch trần tố cáo bộ mặt của kẻ thù. Với bản chất ngang tàn, hống hách chúng không chỉ coi thường dân ta mà còn sỉ nhục, lăng mạ triều điều từ vua đến quan: "đi lại nghênh ngang ngoài đường", "sỉ mắng triều đình", "bắt nạt tể phụ", "đòi ngọc lụa", "thu ngọc vàng", "vét của kho có hạn". Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ "sứ giặc" như "lưỡi cú diều","thân dê chó", "hổ đói"; ông đặt chúng ngang với lũ súc sinh, không còn liêm sỉ. Từ đó Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp cũng như đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ.

Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi lòng của mình "Ta thường tới bữa quên ăn; nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" và tột cùng là "chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Những hành động mạnh mẽ ấy không chỉ thể hiện sự căm thù giặc mà còn là ý chí quyết chiến quyết thắng, một phen sống chết với quân thù. Cao hơn nữa, ông còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho Tổ quốc: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Tất cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ông đều được đẩy tới cực điểm! Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù như được viết nên từ máu và nước mắt. Để rồi nó trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm; dồn nén thì khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và hình ảnh đã khắc họa được hình ảnh người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm người tướng sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, Trần Quốc Tuấn còn luôn quan tâm, sẻ chia, theo dõi những tướng sĩ dưới quyền khi xông pha trận bão cũng như khi thái bình: "không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng,...". Từng đây thôi cũng đủ hiểu ông là một vị tướng như thế nào! Trên cơ sở, mối quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ vô trách nhiệm trước vận mệnh nước, lơ là cảnh giác trước kẻ thù "nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái dương để đãi yến ngụy sự mà không biết căm". Cái sai tiếp theo là hành động hưởng lạc: ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, lo làm giàu, quyến luyến vợ con,... Đồng thời ông cũng chỉ rõ hậu quả của tất cả những việc đó: tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ hay thiêng liêng hơn là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ... Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu Tổ quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhằm để đánh bại những tư tưởng dao động, bàng quang giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng và đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Cuối cùng ông nêu ra hai viễn cảnh: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể đến nơi mà phúc như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều chúng khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là "chuyên tập sách này" - cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện "mới chỉ là đạo thần chủ" còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân "tức là kẻ nghịch thù". Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng. Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát", họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy."Hịch tướng sĩ " của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại: sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.

Bài tham khảo Mẫu 3

Từ bao đời nay, nước ta trải qua mấy ngàn năm văn hiến lịch sử, đó là những năm tháng đầy máu và nước mắt của cha ông. Mảnh đất màu mỡ này đã biết bao lần chịu sự giày xéo của vó ngựa phương Bắc, chịu bao lần bom đạn của thực dân đế quốc. Thế nhưng dân tộc ta vẫn tồn tại, đó chính là bởi vì truyền thống yêu nước sâu sắc, đã thành máu thịt của nhân dân không bao giờ có thể phai mờ. Tấm lòng yêu nước ấy cũng được thể hiện trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, vị công thần, vị tướng tài bậc nhất với tấm lòng yêu nước thương dân sắt son vô cùng.

Trước hết, Trần Quốc Tuấn quay ngược dòng lịch sử nhắc về những sự kiện, những con người trung nghĩa, dũng cảm khi xưa đã hi sinh thân mình phò tá, tương cứu chủ tướng của mình như thế nào. Này thì Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh toàn là những bậc anh hùng tận trung tận tụy, được người đời và chủ tướng quý trọng. Trần Quốc Tuấn khơi lại chuyện cũ như vậy chỉ nhằm nhấn mạnh một điều: "Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước đời nào không có?". Thức tỉnh binh lính rằng nếu cứ rụt rè xó cửa, vướng bận nữ nhi thường tình thì sao có thể lưu danh sử sách muôn đời, sao có thể báo đáp ân tình đất nước cho được. Đó là một câu hỏi khiến con người ta phải trăn trở suy nghĩ, đánh mạnh vào tâm hồn của từng người đang nghe bài hịch, quả thật là một đòn tâm lý xuất sắc của Trần Quốc Tuấn. Như chưa đủ sức thuyết phục, ông lại kể thêm chuyện Tống, Nguyên cũng có những bậc trung thần tận tụy như Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư giúp chủ soái của mình giết giặc anh dũng, chẳng nề hà ngại khó, sợ chết bao giờ thế nên các nước ấy mới giữ được nền độc lập đến nay và càng trở nên vững mạnh. Công lao của các vị ấy còn được nhân dân để ơn đến muôn đời sau không hết.

Quay trở về với thực tại Đại Việt ta, đất nước đang trong cảnh loạn lạc, lầm lạc, Trần Quốc Tuấn thể hiện lòng căm ghét giặc qua những câu: "Ngó thấy sứ giặc nghênh ngang đi lại ngoài đường uốn lưỡi cú diều mà sỉ nhục triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ". Trong mắt Trần Quốc Tuấn, bọn giặc dã chỉ xứng ngang với loài ác thú diều hâu, là loài gia súc hèn kém như dê, chó, điều đó vừa thể hiện sự khinh thường vừa là nỗi căm giận của tác giả khi chúng ngang nhiên tổn hại đến quốc thể, đến triều đình. Căm ghét hơn nữa là bọn giặc còn tham lam vơ vét của cải, bỏ đầy túi riêng chẳng khác nào loài hổ đói không diệt thì là hậu họa khôn lường về sau. Trần Quốc Tuấn đã có tầm nhìn xa trông rộng, đoán biết trước được âm mưu đê tiện của kẻ thù và vận mệnh của dân tộc nếu không có cách giải quyết triệt để.

Nỗi căm ghét tận cùng ấy càng làm cho tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thêm sôi sục, thêm day dứt tâm can "tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt" đó là nỗi đau, nỗi lo lắng đến mất ăn, mất ngủ. Chỉ trằn trọc một nỗi hận không thể sớm ngày "xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù" cho hả giận. Lòng yêu quê hương đất nước, tấm lòng thương dân sâu sắc khiến ông cam nguyện phơi thân ngoài nội cỏ, xác bọc trong da ngựa nơi sa trường cũng không màng. Bởi được hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc là niềm vinh dự, tự hào biết mấy, sao có thể vì sợ hãi mà nép nơi xó cửa nhìn giặc dữ giày xéo lên mảnh đất quê hương, nơi ông chôn rau cắt rốn. Tấm lòng trung trinh, yêu nước của vị tướng kiêu hùng thật đáng ngưỡng mộ và trân quý biết bao nhiêu.

Chính tấm lòng yêu nước sâu sắc và lòng quyết tâm dẹp giặc đã khiến ông viết ra bài hịch với lời lẽ thật chân thành tha thiết và gần gũi như thế. Bởi "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao", thế nên muốn thắng quân thù trước hết phải có binh lính, phải có sĩ khí bừng bừng một lòng giết giặc thì mới nên chuyện. Ông bình thường là tướng quân cao trên vạn người nhưng không vì thế mà kiêu ngạo, ngược lại hết lòng yêu thương quân lính của mình, đối đãi rất tử tế, cho cơm ăn áo mặc đầy đủ, thăng quan tiến chức công bằng, ra sa trường thì kề vai chiến đấu, ngày thái bình thì lại uống rượu chuyện trò hết sức gần gũi thân thiết. Nhưng ông cũng hết sức phê phán lối sống bàng quan của binh lính, thấy nước mất tới nơi mà vẫn bình chân như vại, chẳng biết lo nghĩ, thấy chủ nhục cũng mặc kệ, đó là bất trung, bất nghĩa đến nhường nào. Ông phê phán thói sống ăn chơi, an nhàn thích chọi gà, đánh bạc, quanh quẩn ruộng vườn, quấn quýt vợ con, hoặc ham kiếm tiền, săn bắn mà chẳng lo nghĩ đến việc binh, việc nước, để tiếng hát, hương rượu mụ mị đầu óc quên việc gươm đao của nhà binh. Trần Quốc Tuấn lại tiếp tục thức tỉnh binh lính của mình bằng những hậu quả của việc bàng quan, lơ là việc nhà binh, việc nước bằng việc cảnh báo những nguy cơ đang ập đến, người thân vợ con bị bắt bớ, bổng lộc, đất đai bị mất hết, xã tắc tổ tông, mộ phần gia tiên bị vó ngựa giày xéo. Lúc ấy, nỗi nhục mất nước, tan nhà để đâu cho hết, lúc ấy phải muôn đời mang danh đánh mất nước vào tay giặc, phải chịu kiếp nô lệ. Thiết nghĩa bấy nhiêu thôi cũng đã đủ đánh thức lòng quyết tâm diệt giặc thù của toàn bộ binh lính.

Nhưng Trần Quốc Tuấn vẫn chưa dừng lại ở đó, sau những lời khích lệ cái tinh thần yêu nước, thù giặc của binh lính ông tiếp tục có những lời lẽ hết sức chân thành để động viên binh sĩ của mình. "Đặt mồi lửa vào dưới đống củi", "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội", ý muốn nói phải biết lo trước cái lo của người, những việc chưa xảy ra, phải đề phòng cảnh giác trong mọi trường hợp, đừng thấy an yên mà tưởng thái bình. Nhằm khuyên nhủ binh sĩ chăm lo tập dượt, sao cho ai ai cũng giỏi giang, lúc ấy chẳng sợ gì địch mạnh, giặc đến thì sẵn sàng bước ra chiến trường giết giặc thể hiện sự anh dũng, lòng trung với tổ quốc của người con Đại Việt. Tổ quốc có an yên thì mới có thái ấp, bổng lộc, vợ con được hưởng sung sướng, đời đời được nhân dân nhớ ơn mà tôn thờ, để danh thơm muôn đời cho con cháu. Trần Quốc Tuấn dùng hết tâm huyết và tài lược của bản thân để thành cuốn Binh thư yếu lược cho binh sĩ học tập, rèn luyện với một mong ước duy nhất ai ai cũng thông thuộc binh pháp, đủ sức, đủ trí dũng ra sa trường dẹp giặc, rửa mối nhục thù cho dân tộc, cho tổ quốc.

Tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thật sâu sắc và đáng khâm phục. Tuy là quan võ nhưng lại có tài văn chương, lời lẽ xác đáng, có sức thuyết phục cao, nghe bài hịch mà tưởng như lòng yêu nước chân thành, tha thiết của ông đang lan truyền trong trái tim của từng binh sĩ, thức tỉnh quân lính ra khỏi cơn mộng mị, khơi gợi được lòng yêu nước, tự tôn dân tộc của mỗi con người, khiến không ai có thể chối từ được. Tựu chung lại ông chỉ có một mong muốn làm sau cho nước nhà được độc lập, nhân dân được sống trong cảnh thái bình mà thôi.


Cùng chủ đề:

Trình bày suy nghĩ của em về vở kịch Đổi tên cho xã lớp 8
Trình bày suy nghĩ của em về ý kiến: Có ba cách để tự làm giàu mình: Mỉm cười, cho đi và tha thứ lớp 8
Trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu nói Đường đời không chỉ có một lối đi lớp 8
Trình bày suy nghĩ của em về đạo lý uống nước nhớ nguồn lớp 8
Trình bày suy nghĩ về số phận của người nông dân trong tác phẩm Tắt đèn lớp 8
Trình bày suy nghĩ về vấn đề tình yêu tổ quốc thông qua tác phẩm Hịch tướng sĩ lớp 8
Trình bày ý kiến của em về vấn đề cần cấm sử dụng vận dụng bằng ni lông để bảo vệ môi trường lớp 8
Trong bài thơ Bếp lửa - Bằng Việt, tại sao khi nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và ngược lại, khi nhớ về bà là nhớ ngay đến hình ảnh bếp lửa? Viết đoạn văn nêu rõ ý kiến của em?
Trong bài: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” Hồ Chủ tịch có viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. ” Dựa vào văn thơ đã học và thực tế lịch sử của dân tộc, em hãy chứng minh nhận định trên
Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, em thích nhất điều gì? Nêu ý kiến của em về điều đó
Trong truyện ngụ ngôn Treo biển, em có suy nghĩ gì về lời góp ý của những người qua đường? Bài học em rút ra được từ câu chuyện này là gì?