Văn bản Bắt sấu rừng U Minh Hạ — Không quảng cáo

Soạn văn 12 tất cả các bài, Ngữ văn 12 , tổng hợp văn mẫu hay nhất


Văn bản Bắt sấu rừng U Minh Hạ

(Lược phần đầu: Ở vùng U Minh Hạ, cá sấu thường đi ngược sông vào giữa rừng tràm sinh sống. Một người lên rừng lấy mật ong phát hiện ra ở ngọn rạch Cải Tàu có cái ao sấu “nhiều như trái mù u chín rụng)

Bắt sấu rừng U Minh Hạ

Sơn Nam

(Lược phần đầu: Ở vùng U Minh Hạ, cá sấu thường đi ngược sông vào giữa rừng tràm sinh sống. Một người lên rừng lấy mật ong phát hiện ra ở ngọn rạch Cải Tàu có cái ao sấu “nhiều như trái mù u chín rụng)

Cái ao sấu ở ngọn rạch… Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đại lần lần, thấu đến tại ông Năm Hền, người thợ già chuyện bắt sấu ở Kiên Giang đạo”, tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuống, có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.

Từ sớm tới chiều, ông bơi xuống tới lui theo rạch mà hát:

Hồn ở đâu đây ?

Hồn ơi ! Hồn hỡi !

Xa cây xa cối,

Xa cội xa nhành,

Đầu bãi cuối gành,

Hùm tha, sấu bắt,

Bởi vì thắt ngặt,

Manh áo chén cơm,

U Minh đỏ ngòm

Rừng tràm xanh biếc!

Ta thương ta tiếc,

Lập đàn giải oan...

Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kì lạ, xuống đúng dưới bến để nhìn kĩ. Đoán chùng ông lão nọ là người có kì tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.

Sau khi tự xung danh tánh, ông bảo :

–Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này...

– Té ra ông là thợ câu sấu!

Ông Năm Hền lắc đầu :

– Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Đó là ở dưới nước. Đằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.

– Vậy chớ ông bắt bằng gì?

– Tôi bắt bằng... hai tay không.

Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hền cười giòn :

– Bà con cô bác không tin sao?

Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hen này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thủ cách thức.

– Thưa ông, chùng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mùng? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. Ở xóm này, thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

Ông Năm Hèn đáp :

– Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chùng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt ? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không mang thứ phú quái đó. Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lợi nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông Nhà Hồ của mình ngoài Huế.

Sáng hôm sau, ông Năm Hèn đi lên ao sấu, có Tư Hoạch – một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hền cản lại:

– Đi nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.

Đã quá giờ ngọ.

Ngóng về phía ao sấu U Minh Hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời vừa xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:

– Bà con ơi! Ra coi sấu... Bốn mươi lăm con còn sống nhãn.

Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.

– Diệu kế ! Diệu kế ! Tôi là Tu Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lợi có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.

Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuống, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát. Tiếp theo lái xuống là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kẻ trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chùng như tiếp súc với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao ? Người thì đứng há miệng sủng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuống ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.

Đại khái, Tu Hoạch trình bày :

– Tới ao sấu, ông Năm Hàn đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ống với tôi lấy xuống đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên rừng chùng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bút cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ống thì lo đốn một đống cây mốp tươi, chặt ra khúc chùng ba tấc.

Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám vậy để trong ao. Chập sau, bị khỏi bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hền chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. Ông đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng : như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khoá miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gần đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc kẻ hai chân sau của nó lại; chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.

– Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. Ông đâu rồi ? Sao không thấy ống về ? Xóm mình nhất định đền ơn ống một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?

Tư Hoạch nói:

– Mà quên ! Ông biểu tôi về trước cho bà con coi thủ. Phần ổng mắc ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi đi bộ về sau.

Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ :

Hồn ở đâu đây ?

Hồn ơi ! Hồn hối!

Xa cây xa cối,

Xa cội xa nhành,

Đầu bãi cuối gành,

Hùm tha, sấu bắt,

Bởi vì thắt ngặt,

Manh áo chén cơm,

U Minh đỏ ngòm,

Rừng tràm xanh biếc !

Ta thương ta tiếc,

Lập đàn giải oan...

Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mẻ rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bỏ nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.

– Coi tướng của ống ghê như tướng thầy pháp ! – Một người thốt lên như vậy.

Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Đó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ

(Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1986)


Cùng chủ đề:

Từ bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến, anh (chị) hãy viết bài văn bàn về danh và thực trong cuộc sống hiện nay
Từ những câu thơ sau đây, hãy nêu cảm nhận của mình về lòng yêu quê hương
Vài nét về Nam Cao
Văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông
Văn bản Bác ơi!
Văn bản Bắt sấu rừng U Minh Hạ
Văn bản Chiếc thuyền ngoài xa
Văn bản Dọn về làng
Văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Văn bản Mấy ý nghĩ về thơ
Văn bản Một người Hà Nội