Văn bản Những đứa trẻ
Có đến gần một tuần không thấy ba anh em nhà ấy ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi trên cây, nó gọi, giọng thân mật
NHỮNG ĐỨA TRẺ
(Trích Thời thơ ấu)
Có đến gần một tuần không thấy ba anh em nhà ấy ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi trên cây, nó gọi, giọng thân mật :
– Xuống đây chơi với chúng tớ !
Chúng tôi trèo lên cái xe trượt tuyết cũ để ở dưới mái hiện nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhau, vừa nói chuyện rất lâu.
- Các cậu có bị ăn đòn không ?
- Có – Thằng anh lớn trả lời.
Tôi thấy khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh đòn như tôi, tôi thấy tức thay cho chúng.
– Sao anh lại bắt chim ? – Thằng bé nhất hỏi.
- Vì chúng nó hót hay lắm.
– Không nên bắt, cứ để cho chúng muốn bay đi đâu thì bay.
– Được, mình sẽ không bắt nữa !
– Nhưng anh hãy bắt cho em một con đã.
– Em muốn chim gì ?
– Chim gì hót vui vui ấy. Để nhốt vào lồng.
- Thế thì chim bạch yến nhé ?
– Mèo nó bắt mất – Thằng thứ hai nói – Mà bố cũng chẳng cho nuôi.
Thằng anh lớn tán thành :
- Đúng đấy, bố chẳng cho nuôi đâu...
– Thế các cậu có mẹ không ?
- Không – Thằng anh lớn đáp.
Nhưng thằng thứ hai chữa lại :
– Có, nhưng là mẹ khác, không phải là mẹ chúng tớ, chúng tớ không còn, mẹ chúng tớ chết rồi.
- Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ – Tôi nói.
Thằng anh lớn gật đầu :
- Ừ
Và cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại.
Qua những truyện cổ tích của bà tôi, tôi đã biết thế nào là dì ghẻ, nên tôi rất thông cảm với sự im lặng, nghĩ ngợi của bọn nó. Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Tôi nhớ lại truyện mụ dì ghẻ phù thuỷ đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, tôi liền bảo chúng :
- Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem !
Thằng anh lớn nhún vai :
- Chết rồi cơ mà, về làm sao được...
Không được ư ? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là sống lại ; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thuỷ.
Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những câu chuyện của bà tôi. Lúc đầu thằng anh lớn chỉ mỉm cười, sau nó nhẹ nhàng bảo :
– Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là những truyện cổ tích...
Hai em nó im lặng nghe, thằng bé nhất mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó, ấn em nó cúi xuống.
Trời đã bắt đầu tối, những đám mây đỏ treo lơ lửng trên các mái nhà, bỗng trước mắt chúng tôi hiện ra một ông già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông.
– Đứa nào đây ? – Ông ta hỏi và chỉ vào tôi.
Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà ông tôi :
– Nó ở... bên kia sang...
- Đứa nào gọi nó sang?
Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngông ngoan ngoãn
Ông già nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi qua sân ra cổng ; ông ta làm tôi sợ đến phát khóc, nhưng ông bước dài và nhanh đến nỗi tôi chưa kịp khóc oà lên thì đã ở ngoài đường rồi, còn ông ta đứng trước cổng, giơ ngón tay doạ tôi và nói :
_ Cẩm không được đến nhà tạo !
[...] Tôi vẫn tiếp tục chơi với mấy đứa trẻ ấy và cảm thấy rất vui thích. Trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà tôi và hàng rào nhà Ốp-xi-an-ni-cốp có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp. Nấp sau bụi cây đó, tôi khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt ở hàng rào, mấy thằng bé, lần lượt từng đứa hay hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ xuống nói chuyện khe khẽ với nhau. Một đứa trong số ba anh em chúng phải luôn đứng canh để đề phòng ông đại tá bất chợt bắt gặp chúng tôi.
Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi buồn lắm ; chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác, nhưng tôi nhớ lại thì chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ. Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể truyện cổ tích ; tôi kể lại những truyện bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi. Thấy thế bà tôi thường rất hài lòng.
Tôi cũng kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi ; một hôm thằng lớn thở dài nói :
– Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt...
Nó thường nói một cách buồn bã : ngày trước, trước kia, đã có thời... dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm, chứ không phải mười một năm. Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả...