Văn bản Nói thêm về "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Đình Chú) — Không quảng cáo

Soạn văn 9 cánh diều, Soạn văn lớp 9 hay nhất


Văn bản Nói thêm về "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Đình Chú)

1. Với loại “thiên cổ kì bút” như Chuyện người con gái Nam Xương trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, dù đã được phân tích, khám phá nhiều nhưng thiết nghĩ vẫn có điều cần nói thêm. […]

NÓI THÊM VỀ "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG" - NGUYỄN ĐÌNH CHÚ -

1. Với loại “thiên cổ kì bút” như Chuyện người con gái Nam Xương trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, dù đã được phân tích, khám phá nhiều nhưng thiết nghĩ vẫn có điều cần nói thêm. […]

2. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, hình tượng trung tâm là Vũ Nương đã được xây dựng với tính cách một phụ nữ đẹp người, đặc biệt là đẹp nết nhưng lại phải chịu một nỗi oan khiên tày trời. Nàng là hiện thân cho thân phận đau khô của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Nói thế hoàn toàn không sai nhưng chưa đủ để phân biệt được giá trị của Chuyện người con gái Nam Xương với các tác phẩm khác cùng nói về phẩm chất tốt đẹp và nỗi khổ của người phụ nữ ở thời trung đại. Muốn thấy được cái độc đáo và cũng là cao siêu của Chuyện người con gái Nam Xương, phải nói thêm điều này. Đó là cái mong manh vô cùng mong manh, mong manh tới độ với tư duy thông thường, trên thế gian này, chẳng ai có thể nghĩ tới. Nhưng đó là sự thật. Sự thật quá ư khắc nghiệt đối với hạnh phúc của đàn bà, chẳng riêng gì ở Việt Nam thời phong kiến, mà còn là với nữ giới muôn nơi, muôn thuở. Cứ đọc kĩ Chuyện người con gái Nam Xương thì thấy rõ. Có đúng là sự tan nát hạnh phúc của Vũ Nương đã bắt đầu từ cái bóng của chính Vũ Nương không? Chồng đi chiến trận, “ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Cái bóng là gì vậy? Nếu không phải là một biểu tượng cho sự đồng nhất mình với chồng. Kim - Kiều yêu nhau, Nguyễn Du đã có một cách nói đến mức sơn cùng thuỷ tận về chữ “đồng" trong tình yêu: "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". Nguyễn Dữ trước Nguyễn Du, trong Chuyện người con gái Nam Xương, lấy cái bóng của Vũ Nương để nói là cha Đản, tức là chồng mình, kể cũng là một cách nói sơn cùng thuỷ tận về chữ “đồng” trong đạo vợ chồng. Vậy mà có ai ngờ rằng đời Vũ Nương tan nát bắt đầu chính từ cái bóng kia. Tan nát đến mức thánh thần, Trời Phật cũng chỉ có thể an ủi, bù đắp chút ít chứ không cứu lại được. Rồi nữa, tham gia vào việc phá nát hạnh phúc của Vũ Nương là ai? Trời ơi! Lại không ai khác mà chính là đứa con của Vũ Nương. Nó ngây thơ, trong trắng. Nó hoàn toàn vô tội. Nhưng thực tế khách quan, nó là tác nhân trực tiếp gây ra sự tan nát hạnh phúc của cuộc đời người mẹ thân yêu của nó. Có đáng sợ, có khủng khiếp không cho cái gọi là sự ma quái trong cuộc sống con người ở cõi trần này! Trong Truyện Kiều, nàng Kiều bị tan nát hạnh phúc, chịu hết hoạn nạn này đến hoạn nạn kia là bởi có thằng bán tơ vu oan, có viên quan quen nghề ăn hối lộ, có Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh chuyên nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, có Hoạn Bà, Hoạn Thư ỷ thế danh gia nanh nọc, có Hồ Tôn Hiến nổi tài lật lọng, ... Tóm lại là có nguyên nhân xã hội cụ thể, có những kẻ gian ác sờ sờ trước mắt mọi người, để người ta nếu chưa đủ sức chống lại, tiêu diệt thì có thể tìm cách né tránh, lánh xa nó. Đằng này, Vũ Nương làm sao mà né tránh được những tác nhân phá hoại đời mình một khi nó nằm ngay trong cái bóng của mình, nằm ngay trong cảnh mình vui đùa với con, nằm ngay trong khi mình muốn gắn bó keo sơn với chồng đang phải xa cách, nằm ngay trong một câu nói hồn nhiên, vô tư của đứa con ngây thơ, trong trắng của mình. Ở phương diện thể hiện nguyên nhân đau khổ của người phụ nữ, Chuyện người con gải Nam Xương có ý nghĩa triết học sâu sắc bởi nó đã chạm được vào sự ma quái có thực trong cuộc sống con người muôn thuở. Không ít người đã cho rằng sự tan nát hạnh phúc của Vũ Nương là do chế độ nam nữ bất bình đẳng. Nói thế nghe qua thấy có lí. Nhưng nghĩ kĩ thì thấy về cơ bản không hẳn thế. Bởi như chính tác phẩm đã để lộ, nguyên nhân quan trọng và trực tiếp làm tan nát đời Vũ Nương cùng với chuyện cái bóng của Vũ Nương, lời nói hồn nhiên, vô tư của đứa con, là cái “tính đa nghi”, "hay ghen" của anh chồng Trương Sinh. Mà cái tính “hay ghen” là gì? Là một hiện tượng tâm lí có liên quan đến sinh lí, tính người mà hình như tạo hoa chỉ ban riêng cho loài người. Nó rất ít liên quan đến vấn đề hình thái xã hội, chế độ chính trị, kể cả dân tộc và thời đại lịch sử. Nó chỉ trừ riêng cho những người mất trí hoặc giả với ai đó, dĩ nhiên là rất hiếm, có trạng thái tâm lí không bình thường hoặc có triết lí sống quá siêu việt. Trước phiên toà công lí trong Truyện Kiều, Hoạn Thư chẳng đã nói đúng cái quy luật muôn đời này sao: “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". "Người ta” đây chắc hẳn là có cả nam lẫn nữ. Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã được thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao? Phải nói rõ điều đó để hiểu được vấn đề triết học nhân sinh vô cùng sâu sắc mà Nguyễn Dữ đã nêu lên trong tác phẩm, dù tự giác hay tự phát, có ý thức hay vô tình. Phải hiểu rõ điều đó cũng là để hiểu đúng nguồn gốc tội lỗi của Trương Sinh trong việc đẩy vợ vào chỗ chết. Đúng là không ai không căm phẫn trước tội lỗi của anh chàng này nhưng từ đó mà quy về chế độ nam nữ bất bình đẳng thì về cơ bản chưa thật đúng ý tác phẩm. Nếu thế, cũng khó cắt nghĩa đúng hiện tượng Trương Sinh đã “động lòng thương, tìm vớt thây nàng” ngay cả khi còn “giận là nàng thất tiết”; cũng khó cắt nghĩa đúng sự “tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ” về sau, khi lại chính từ cái bóng của chàng và cũng qua câu nói của đứa con ngây thơ, trong trắng mà chàng hiểu ra mình đã lầm to để gây tội ác với vợ. Xin nói lại: Cái tội tày trời của Trương Sinh, xét nguyên nhân không gì khác, là cái tội của một anh chồng có “tính đa nghi”, "hay ghen", muốn tránh cũng không tránh được, mà tạo hoa đã trớ trêu ban cho anh ta cũng như bao chàng trai, cô gái khác trên thế gian này từ cổ chí kim, từ đông sang tây, cùng một lúc ban cho họ hạnh phúc tình yêu, tình vợ chồng. Để từ đó, văn chương có chuyện mà nói, mà sáng tạo, mà có Đe-xđê-mô-na (Desdemona) của nước Anh bị bóp cổ chết, Vũ Nương của Việt Nam phải tự vẫn, ... nhưng lại thành nổi tiếng với muôn đời. Đây đó lại còn có ý kiến cho rằng Vũ Nương tan nát hạnh phúc là vì chiến tranh. Xin nói ngay: Ý kiến này là hoàn toàn sai, là vô hình trung đã coi Chuyện người con gải Nam Xương cũng như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, trong khi hai tác phẩm có hai nội dung, hai chủ đề khác nhau, mặc dù đều phản ánh nỗi khổ của người phụ nữ. Cần thấy rằng chi tiết Trương Sinh đi chiến trận chẳng có vai trò quyết định gì trong nội dung câu chuyện đánh ghen đến mức đẩy vợ đến cái chết này. Giả sử anh ta không ra trận mà đi học xa về, đi buôn xa về, gặp con, con không nhận ra cha lại cứ nói cha là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” (đúng là người ngoại tình với mẹ chứ còn ai nữa) thì chuyện gì đã xảy ra trong tác phẩm, chắc chắn lại xảy ra thôi. Ở trên đã có nói, với chi tiết phụ, nếu có thay đổi cũng chẳng ảnh hưởng gì đáng kể đến nội dung tác phẩm là như thế.

3. Rõ ràng truyện Chuyện người con gái Nam Xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc người phụ nữ muôn nơi, muôn thuở. Cho nên, những chàng trai, cô gái đang yêu nhau, những cặp vợ chồng dù đã hẹn non thề biển, đã kết tóc xe tơ với nhau trên thế gian này, vẫn cứ phải coi chừng, phải cảnh giác. Coi chừng, cảnh giác về nhiều thứ nhưng xin đừng quên coi chừng, cảnh giác với máu ghen. Hãy nhớ rằng chỉ nhỡ ra một chút thôi (ở đây là nghe con nói mà không hỏi lại vợ xem sao) thì đã đủ tan nát cả cuộc đời, đã đủ để hạnh phúc trong chốc lát trở thành mây khói, muốn cứu vãn cũng chẳng cứu vãn được nữa. Nguyễn Dữ từ sự cảm nhận, phát hiện được cái quy luật khắc nghiệt và ma quái đó trong cuộc sống của người phụ nữ mà tạo nên (nói đúng hơn là sáng tạo lại) một cốt truyện bao gồm một hệ thống chi tiết, trong đó đặc biệt có chi tiết chủ công ăm ắp trữ lượng nghệ thuật thông qua một bút pháp vừa thực vừa ảo, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Và cuối cùng là để lại cho văn học dân tộc một thiên tình sử bi thảm, nhức nhối trái tim người đọc bao đời nay, cho lịch sử văn học Việt Nam một áng “thiên cổ kì bút", cho riêng thể loại truyện ngắn Việt Nam một tác phẩm vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vời vợi của muôn đời.


Cùng chủ đề:

Văn bản Làng (Kim Lân)
Văn bản Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (trích Truyện Lục Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
Văn bản Mục đích của việc học (Nguyễn Cảnh Toàn)
Văn bản Người thứ bảy (Mu - Ra - Ka - Mi)
Văn bản Nhật kí đô thị hóa (Mai Văn Phấn)
Văn bản Nói thêm về "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Đình Chú)
Văn bản Ông lão bên chiếc cầu (Hê - Minh - Uê)
Văn bản Phân tích bài "Khóc Dương Khuê"
Văn bản Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư - Trần Quang Khải)
Văn bản Quần thể di tích Cố đô Huế
Văn bản Quê hương (Tế Hanh) CD