Văn bản Thu hứng — Không quảng cáo

Soạn văn 10, ngữ văn 10 kết nối tri thức với cuộc sống


Văn bản Thu hứng

Phiên âm Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Thu hứng

(Cảm xúc mùa thu)

Đỗ Phủ

Phiên âm

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian là lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa

Sương móc trắng xoá làm tiêu điều cả rừng cây phong

Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.

Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,

Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.

Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,

Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.

Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,

Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.

Dịch thơ

Bản dịch 1

Lác đác rừng phong loạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn của ải xa.

Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.

Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

(Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014, tr. 146)

Bản dịch 2

Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy

Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.

Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,

Đầu ải mây sà mặt đất bay.

Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,

Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.

Nơi nơi áo lạnh đòi dạo thước,

Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.

(Khương Hữu Dụng dịch,Thơ Đỗ Phủ NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr. 229)


Cùng chủ đề:

Văn bản Sự sống và cái chết
Văn bản Tác gia Nguyễn Trãi
Văn bản Tản Viên từ Phán sự lục
Văn bản Tê - Dê
Văn bản Thế giới mạng và tôi
Văn bản Thu hứng
Văn bản Tính cách của cây
Văn bản Truyện kể về các vị thần sáng tạo thế giới
Văn bản Về chính chúng ta
Văn bản Xúy Vân giả dại
Văn bản Yêu và đồng cảm