Ý nghĩa tư tưởng và nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt — Không quảng cáo

Văn mẫu 12 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 12 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vợ nhặt


Ý nghĩa tư tưởng và nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt

Từ đầu năm 1940, phái xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân Việt Nam lâm vào tình thế một cổ hai tròng.

Đề bài

Ý nghĩa tư tưởng và nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn "Vợ nhặt".

Lời giải chi tiết

Từ đầu năm 1940, phái xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân Việt Nam lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Pháp tăng cường vơ vét bóc lột, tích trữ lương thực tiếp tục thực hiện chiến tranh. Nhật bắt nhân dân miền Bắc nhổ lúa trồng đay. Nạn vỡ đê mất mùa liên liếp xảy ra. Đến mùa xuân năm ất Dậu (1945), toàn dân ta lâm vào nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử, riêng ở đồng bằng Bắc Bộ đã có tới hơn hai triệu người bị chết đói. Họ chết trên đường tha phương cầu thực, chết thê thảm bên gốc cây, hè đường, quán chợ… Trong hoàn cảnh đó, Mặt trận Việt Minh đã kêu gọi phá kho thóc của Nhật cứu đói dân nghèo và phát động họ vùng lên làm cuộc cách mạng tháng Tám 1945. Nỗi đau này làm xúc động giới nghệ sĩ và đã hiện hình trong không ít những tác phẩm của các nghệ sĩ như Nam Cao, Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyền Đình Thi... Bằng tài năng đích thực và một trái tim gắn bó xót thương đối với những kiếp người nông dân khốn khổ lam lũ, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc: Vợ nhặt.

Nội dung truyện "Vợ nhặt" hết sức đơn giản. Tác phẩm được xây dựng theo chiều diễn biến tâm lí nhân vật. Đầu tiên Kim Lân miêu tả cành Tràng, một nông dân thô kệch đưa vợ về nhà, tiếp theo, nhà văn để cho Tràng nhớ lại việc mình “nhặt” được vợ, và cuối cùng là tâm trạng của mọi người trong gia đình, đặc biệt là tâm trạng của Tràng và bà cụ Tứ nhân việc gia đinh có thêm một thành viên mới. Cốt truyện đơn giản, nhưng Vợ nhặt có nội dung tư tưởng sâu sắc.

Trước hết, qua truyện ngắn "Vợ nhặt", nhà văn phản ánh sinh động tình cảnh khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, dưới chế thực dân phong kiến và tình cảm hướng về cách mạng của họ.

Ngay từ trang đầu tiên, nhà văn đã dựng lên một bức tranh ảm đạm: Cái làm thay đổi cuộc sống vốn bình lặng của xóm ngụ cư. Cái đói làm cho bọn con ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Rộng hơn, cái khiến cho nhiều người xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Bao trùm lên cái xóm ngụ cư này là một không khí chết chóc: Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Lại thêm mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoáng vào khét lẹt. Người ta nghe thấy tiếng ai khóc, tỉ tê lúc to lúc nhỏ và tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết...

Ngoài ra từ câu chuyện anh Tràng tự nhiên “nhặt” được vợ; (người đàn bà dễ dàng theo anh về làm vợ trước hết vì đói quá; bốn bát bánh đúc thay cả cho cheo cưới), đến chuyện nồi cám bà cụ Tứ nấu đãi nàng dâu...tất cả đều nói sự khủng khiếp của nạn đói này. Mọi người trong cái xóm ngụ cư khốn khó bị nạn đói đe doạ, sống trong không khí thấp thỏm lo âu.

Cuộc sống đã bị cái đói đẩy đến đường cùng tưởng chừng như không thể còn lối thoát. Nhưng “cùng tắc biến”. Kết thúc câu chuyện, nhà văn để cho người “vợ nhặt” thông báo với mẹ chồng và một tin quan Irọng: Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa. Người ta còn phá thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy. Nhân đó Tràng nghĩ đến Việt Minh và trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...

Trong hoàn cảnh đen tối này, Tràng, nói rộng ra là quần chúng khốn khó luôn hướng về cách mạng, vì chỉ có cách mạng (mà biểu tượng là lá cờ đỏ) có thể cứu họ thoát khỏi cái chết.

Ở truyện "Vợ nhặt", Kim Lân đã thể hiện một quan điểm nhân đạo sâu sắc cảm động, phát hiện phẩm chất của con người lao động: dù rơi vào hoàn cảnh hết sức bi đát vẫn hướng tới cuộc sống gia đình, vẫn muốn cưu mang lẫn nhau và vẫn hi vọng ở tương lai.

Tràng lấy vợ khiến bà cụ Tứ lo âu, tự hỏi liệu: “nó có nuôi nổi nhau được cơn đói khát này không”. Nghĩ đến hoàn cảnh cùng quẫn của gia mình, cụ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con đáng lẽ phải thế này, thế nọ, nhưng “cái khó bó cái khôn” nên chỉ còn cách nghĩ ngợi mà tủi thân, tủi phận rồi cụ thương con đẻ, cả con dâu. Cụ hiểu rõ nguyên cớ vì sao người ta " phải theo con mình. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót, và nói với vợ chồng Tràng: Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”..rồi nghẹn lời không nói được nữa và nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Việc con mình “nhặt” được vợ vừa là nỗi lo, vừa là niềm vui mừng của bà lão, mừng vì con quê kệch đã có vợ. Lo vì cái đói, cái chết đang rình rập. Dẫu sao thì bà vẫn mừng nhiều hơn. Niềm vui khiến cho cái mặt bủng beo u ám của bà lão rạng rỡ hẳn lên... Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau nàv. Cụ cố giấu cái lo để động viên con trai và con dâu: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn rồi may ra mà ông trời cho khá... biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra rồi thì con cái chúng mày về sau”...Như vậy, tâm trạng (đặc biệt là niềm hi vọng) của bà cụ Tứ đã được diễn tả một cách chân thật, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Khi Tràng có vợ, các thành viên trong gia đinh thu xếp nhà cửa cho sạch sẽ ngăn nắp hơn và nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn khấm khá hơn. Có vợ, Tràng thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng, thấy một niềm vui sướng, phấn trấn đột ngột tràn ngập trong lòng... còn ngay lúc thấy Tràng dẫn người đàn bà về, những khuôn mặt hốc hác u tối của dân xóm ngụ cư bỗng dưng rạng sáng lên. Có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ.

Rõ ràng dù bị cái đói, cái chết rình rập đe doạ, trong không khí ảm đạm thê lương, từ Tràng đến bà cụ Tứ, đến những người xóm ngụ cư này, vẫn hướng tới tương lai, vẫn khát khao một cuộc sống gia đình. Điều này góp phần quan trọng chiến cho truyện ngắn Vợ nhặt có được giá trị nhân bản sâu sắc.

Thành công quan trọng này có thể được giải thích bằng sự hiểu biết kĩ lưỡng của nhà văn đối với nông dân. Nhưng điều cơ bản hơn có lẽ phải kể đến tấm tòng của một cây bút vốn là con đẻ của đồng ruộng. Theo cách diễn đạt của Nguyên Hồng. Kim Lân chính là nhà văn một lần đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông dân.

Tuy vậy xét cho cùng, những ý tưởng đúng đắn cao đẹp nêu trên sẽ không bao giờ có thể lưu lại bền lâu trong độc giả, nếu như nhà văn không tạo nên được một hình thức diễn đạt sắc nét. Bằng Vợ nhặt, Kim Lân đã thể hiện một nghệ thuật viết truyện ngắn bậc thầy.

Trước hết, tác giả đã sáng lạo được một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: anh Tràng làm nghề kéo xe, xấu xí, thô kệch chẳng ai thèm lấy, bỗng dưng “nhặt” được vợ một cách thật dễ dàng nhanh chóng, ở ngay giữa đường giữa chợ, nhờ mấy bát bánh đúc riêu cua.

Trong bối cảnh đói khát lúc bây giờ, Tràng có vợ quả thật là một tình thế éo le: vui, buồn lẫn lộn. Lúc này, Tràng nuôi thân mình và mẹ già còn rất khó khăn, huống hồ tự nhiên lại thêm một miệng ăn nữa, biết lấy gì nuôi nổi nhau? Nhưng Tràng xấu xí, ế vợ lại lấy được vợ dễ dàng thì không thể không xem như là điều may mắn. Tình huống oái oăm này khiến cho những người trong xóm ngụ cư, thậm chí Tràng và cả mẹ Tràng nữa cũng phải ngạc nhiên. Mọi người lo lắng cho tương lai của vợ chồng Tràng: “ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? ”.

Hạnh phúc của cặp vợ chồng mới lấy nhau, của gia đình bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong âm hưởng thê thảm của sự chết chóc. Sự khốn khó còn được nhà văn đặc tả qua một bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: Ba con ăn món cháo cám đắng chát, họ ngồi ăn mà không nỡ nhìn nhau.

Tóm lại, Kim Lân đã tạo được một tình huống giàu ý nghĩa có tác dụng làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm. Dường như mọi chi tiết đều xoay quanh tình huống ấy, trong một kết cấu chặt chẽ.

Ngoài ra Kim Lân còn chứng tỏ khả năng phát hiện và diễn tả tâm lí nhân vật khá sắc sảo. Điều đó thể hiện quá rõ qua việc nhà văn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ và nhân vật Tràng. Kim Lân đã sử dụng, phối hợp nhiều biện pháp : khắc hoạ tâm lí của hai nhân vật này. Lúc thì ông diễn tả tâm lí qua những biểu hiện bề ngoài (qua cử chỉ, lời nói, nét mặt… của nhân vật), lúc thì tác giả mô tả trực tiếp những ý nghĩa sâu kín trong nội tâm nhân vật. Chẳng hạn, nhân vật Tràng ở đoạn đầu tác phẩm, khi anh ta đưa vợ về nhà vào một buổi chiều ảm đạm. Tâm lí ngỡ ngàng, phấn chân của một anh nông dân quê kệch, nay bỗng “nhặt” được vợ được tác giả miêu tả qua cử chỉ và nét mặt: Hắn tủm tỉm một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình.Vợ chồng Tràng đi bên nhau ngượng ngùng trước bao cặp mắt tò mò của dân xóa ngụ cư. Tràng muốn nói gì cho có vẻ thân mật tình tứ, nhưng vụng về lúng túng chẳng biết nói như thế nào. Vì e thẹn, ngượng nghịu nên cuộc đối thoại giữa Tràng và cô vợ mới thật rời rạc, toàn nhát gừng cộc lốc, không có chuyện nào đến đầu, đến đũa... Bên cạnh đó, nhà văn trực tiếp lột tả diễn biến nội tâm nhân vật: Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những ngày tháng trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi theo bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơm man khắp da thịt tựa hồ như có bàn tay vuốt ve trên sống lưng.

Việc nhà văn phát hiện và miêu tả sắc sảo tâm lí khiến cho một số nhân vật trong chuyện sống động có sự hấp dẫn người đọc.

Bên cạnh đó, không thể không nói đến giọng văn mộc mạc, giản dị ngôn ngữ truyện được chọn lọc kĩ lưỡng, nhiều khi rất gần với khẩu ngữ và có giá trị tạo hình. Điều ấy khiến cho thiên truyện có được sức gợi đáng kể (vẻ mặt phớn phở, dãy phố úp súp, bước chân ngật ngưỡng, người cong lớn, chạy ton ton, hềnh hệch...).

Hơn nữa, tên truyện là Vợ nhặt cũng bao hàm nhiều ý nghĩa. “Nhặt” được vợ tỏ sự rẻ rúng của thân phận con người. Thì ra nạn đói năm 1945 khủng đã biến con người thành như cái rơm cái rác có thể “nhặt” được ở bên đường. Tựa đề này đã được chọn (Cũng giống như tựa đề Đôi mắt trong truyện ngắn của Nam Cao) phù hợp với chủ đề câu chuyện, người đọc thật khó tìm thấy một tựa đề khác thay thế.

Với nội dung tư tưởng sâu sắc có giá trị nhân bản, với nghệ thuật truyện đặc sắc tác phẩm Vợ nhặt xứng đáng được xếp vào hàng truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông thôn.

Cùng với một số truyện ngắn sáng tác trước Cách mạng và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, truyện ngắn Vợ nhặt góp phần khẳng định vị trí xứng đáng của nhà văn Kim Lân trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.

Vũ Thảo Phương

(PTTH Phan Chu Trinh, Đà Nẵng)


Cùng chủ đề:

Ý nghĩa nhan đề Đàn ghi - Ta của Lor - Ca
Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” - Lỗ Tấn
Ý nghĩa nội dung của đoạn trích: "Bên ngoài trời rét, mưa cây lả lướt …cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ" trong truyện ngắn Một người Hà Nội
Ý nghĩa tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa
Ý nghĩa tình huống truyện trong Vợ nhặt - Kim Lân
Ý nghĩa tư tưởng và nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt
Ý nghĩa đôi bàn tay Tnú khi bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu đốt
Đáng tự hào cho những tấm lòng nhân đạo bao la giữa người với người - Bài 2
Đáng tự hào cho những tấm lòng nhân đạo bao la giữa người với người - Ngữ Văn 12
Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò sông Đà