Bức tranh đời sống của phố huyện vốn nghèo qua truyện "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam
Thạch Lam đã miêu tả bức tranh phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu, cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo.
Thạch Lam (1910-1942) là thành viên của Tự Lực văn đoàn. Gần mười năm cầm bút, ông để lại một văn nghiệp khiêm tốn: 3 tập truyện ngắn ( Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc ) một truyện dài "Ngày mới", một tập kí "Hà Nội 36 phố phường". Ngoài ra, ông còn có tập tiểu luận "Theo dòng" và hai truyện thiếu nhi ("Quyển sách" và "Hạt ngọc").
Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: "Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học". Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự Lực văn đoàn. Nguyễn Tuân đã khẳng định tính thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. "Dưới bóng hoàng lan", "Nhà mẹ Lê", "Cô hàng xén", "Hai đứa trẻ" đây là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.
Truyện "Hai đứa trẻ" in trong tập ”Nắng trong vườn", Nhà xuất bản “Đời nay", Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẩu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.
Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và vô thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.
Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông"... cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê, "phương Tây đỏ rực như trời cháy...", "Một chiều êm ả như ru" có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo vo trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, cho thấy một tấm lòng sâu nặng gằn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.
Nhưng "Hai đứa trẻ" không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiều tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm của hai đứa trẻ - hai chị em Liên và An.
Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, cô thấy "lòng buồn man mác", đôi mắt "bóng tối ngập đầy dần" và cái buồn của buổi chiều quê thâm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: "Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dãy sáng xanh trong hiệu khách...". Cát trên phố "lấp lánh từng chỗ", đường "mấp mô thêm" trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ "vãn từ lâu" là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi "nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thế dùng được cửa các người bán hàng để lại". Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương, nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng. Cái nghèo là cảnh đời chung của mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là "mùi riêng của đất, của quê hương". Đó chính là mùi vị của cái "Ao đời", của lầm than và nghèo khổ.
Bóng tối như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người "bé nhỏ" nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm "đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối". Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến, tiếng động khẽ của hoa hàng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười “giòn giã” của bà cụ Thi... tất cả mọi âm thanh ấy "chìm ngay vào bóng tối". Phố huyện càng về đêm càng tịnh mịch và đầy bóng tối.
Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. "Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra". Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau "đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc...". Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng "từ chập tối cho đến đêm" mà "chả kiếm được bao nhiêu!". Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong “Gió lạnh đầu mùa”, mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương!
Bà cụ Thi hơi điên, tiếng cười “khanh khách", tay cầm cút rượu soi lên rồi cười “giòn giã, "vừa đi vừa ngửa cổ dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng "lảo đảo” lẫn trong bóng tối... cũng gợi cho ta nhiều thứ, xót xa về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo.
Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật. Vợ chồng ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con bò lê la trên đất "nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác Siêu, bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không hao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu! “kĩu kịt", bóng bác "mênh mang ngả xuống đất . Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn lạ và cơ cực.
Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quê, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo lèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Liên là một cô gái mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội "một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá", Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên... "từng hột sáng lọt qua phên nứa", đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn “lay động trên chõng hàng chị Tí", chấm lửa nhỏ và vàng "lơ lửng" nơi gánh phở bác Siêu... từ đêm này qua đêm khác, Liên vẫn ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, "tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu".
Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi... Đoàn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng", rồi nó "đi mò đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt". Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng..." với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ủi, một nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm "như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát, bừng sáng lên khoảnh khắc, để rồi sau đó, "từ phía xa, bóng đêm lồng với bóng người đi về". Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.
Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ còn đêm khuya, "tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn". Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh "tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố huyện nghèo:
Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc lào,... bấy nhiêu con người nhỏ bé đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả bức tranh phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu, cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong "Thay lời bụt" - Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết: "Truyện "Hai đứa trẻ" có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng gióng lên một cái gì đó ở trong tương lai... Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và cái ước vọng. Đọc "Hai đứa trẻ", thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín".