Cho hai đoạn thơ trong bài thơ Việt Bắc, đoạn 1 thường được coi là bức tranh tứ bình của bài thơ Việt Bắc, còn đoạn 2 là bức tranh Việt Bắc ra trận. Hãy phân tích và so sánh vẻ đẹp của hai bức tranh ấ — Không quảng cáo

Văn mẫu 12 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 12 hay nhất Các dạng bài nghị luận văn học liên hệ, so sánh


Bức tranh tứ bình khắc họa vẻ đẹp trong hòa bình, chủ yếu khắc họa bằng bút pháp lãng mạn. Bức tranh Việt Bắc ra trận là vẻ đẹp trong thời chiến, khắc họa bằng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Cho 2 đoạn thơ sau:

Đoạn 1:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Đoạn 2:

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

(Trích Việt Bắc – Sách Ngữ văn 12, Tập 1, NXBGD 2007)

Đoạn 1 thường được coi là bức tranh tứ bình của bài thơ Việt Bắc , còn đoạn 2 là bức tranh Việt Bắc ra trận. Hãy phân tích và so sánh vẻ đẹp của hai bức tranh ấy.

Dàn ý

I. Mở bài: Giới thiệu chung

- Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam, sự nghiệp thơ của ông song hành với sự nghiệp chính trị. Mỗi bước đi của cách mạng, thơ ông đều phản ánh. Viết vầ cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm gian khổ nhưng hào hùng, có tập thơ “Việt Bắc”

- Bài thơ “Việt Bắc” là một bản tình ca, đồng thời là bản hùng ca của lịch sử, ca ngợi cuộc kháng chiến của quân dân ta và khẳng định tấm lòng nghĩa tình, chung thủy của con người.

- Bức tranh tứ bình của bài thơ Việt Bắc , và bức tranh Việt Bắc ra trận có nhiều đặc sắc

II. Thân bài: Phân tích

1. Bức tranh tứ bình

a. Câu 1,2: Lời nhắn gửi ân tình

- Người ra đi hỏi người ở lại để khẳng định tấm lòng của mình.

- Câu thơ thứ nhất không đơn thuần là một lời hỏi mà còn ngầm chứa một thông điệp: không biết mình có nhớ ta không còn ta thì luôn nhớ mình. Nỗi nhớ được biểu mãnh liệt, tế nhị và sâu sắc.

- Câu 2: cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Người về xuôi nhớ hoa và người Việt Bắc. Hoa là vẻ đẹp tươi tắn, mộng mơ của thiên nhiên; người là đối tượng đẹp nhất của cuộc sống. Hòa với vẻ đẹp thiên nhiên là con người Việt Bắc thuần hậu, ân tình.

- Chữ “nhớ” được điệp lại hai lần trong hai câu thơ khiến tâm trạng con người như trĩu xuống, có tác dụng khai mở cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt đoạn thơ là sự nhớ nhung thật sâu sắc, thấm thía.

b. 8 câu tiếp

- Tám câu thơ có kết cấu đặc biệt với 4 cặp lục bát, cứ một câu nói về thiên nhiên xen kẽ một câu nói về con người  tạo nên bộ tứ bình đặc sắc về cảnh sắc bốn mùa Việt Bắc.

* Bức tranh mùa đông

- Thiên nhiên:

+ Được cảm nhận trên hai bình diện màu sắc: màu xanh thẫm của những núi rừng bạt ngàn và màu đỏ tươi của những bông hoa chuối nở bung rực rỡ.

+ Bản chất của mùa đông là giá lạnh tái tê nhưng bằng cảm quan cách mạng, Tố Hữu đã tạo nên ý thơ tương phản với thông thường. Trên nền xanh mênh mông của núi rừng đột ngột bừng lên màu hoa chuối đỏ tươi như những ngọn đuốc bập bùng giữa đại ngàn. Màu đỏ là gam màu nóng gợi sự ấm áp, tin yêu. Hình ảnh này kết hợp với ánh nắng chan hòa ở câu thơ thứ hai đã khắc họa được một mùa đông Việt Bắc ấm áp, nơi có Đảng và Bác Hồ, nơi chứa đựng niềm tin và sức mạnh của cả dân tộc.

+ Bức tranh mùa đông Việt Bắc thể hiện thế giới quan của nhà thơ cách mạng, luôn hướng về sự sống và ánh sáng.

- Con người:

+ Không phải ngẫu nhiên tác giả nhớ tới hình ảnh con người gắn với vị trí đèo cao. Con người đứng trênđỉnh đèo, ánh nắng chiều chiếu vào lưỡi dao gài ở thắt lung làm lóe sáng, làm nên hai mặt trời sóng đôi thú vị. Mặt trời của thiên nhiên ở trên cao và mặt trời của con người trên mặt đất. Hai hình ảnh hô ứng với nhau hài hòa khắc họa hình ảnh con người lên nương làm rẫy với một tư thế vững chắc, tự tin của con người làm chủ núi rừng.

+ Vẻ đẹp của con người sánh tựa trời đất, mang tầm vóc sử thi.

* Bức tranh mùa xuân

- Thiên nhiên “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”

+ Mùa xuân thiên nhiên khoác lên núi rừng tấm áo màu trắng tinh khiết dệt bằng hoa mơ, cho núi rừng tràn đầy sắc xuân.

+ Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Việt Bắc khi xuân về. Hai chữ “trắng rừng” là một sự sáng tạo ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. Chữ “trắng” về bản chất là tính từ, nhưng ở đây đã được động từ hóa, gợi sự chuyển biến về màu sắc cùng với bước đi của thời gian. Người đọc có cảm giác cả núi rừng Việt Bắc bỗng chốc bừng sáng vì sắc trắng của hoa mơ, thời gian luân chuyển từ đông sang xuân.

=> Với màu trắng của hoa mơ, Tố Hữu đã gợi được vẻ đẹp trong sáng, tràn đầy sức sống, một không gian thoáng rộng bao la của Việt Bắc khi xuân về.

- Con người:

+ Hành động: Đan nón chuốt từng sợi giang gợi phẩm chất chăm chỉ tài hoa của con người Việt Bắc. Người Việt Bắc trở thành một nghệ sĩ trong lao động, đan nên những chiếc nón giản dị, duyên dáng, thấm đẫm màu sắc văn hóa Việt Nam.

+ Ý thơ còn thấm đượm tinh thần cách mạng. Người Việt Bắc đan nên những chiếc nón, chiếc mũ gửi tặng bộ đội, dân công ra hỏa tuyến. Đây là hình ảnh của một thời gian khó mà hào hùng của dân tộc ta.

* Bức tranh mùa hè

- Thiên nhiên: Ve kêu rừng phách đổ vàng

+ Bức tranh thiên nhiên mùa hè được miêu tả bằng cả âm thanh và màu sắc.

+ Hai chữ “đổ vàng” diễn tả ba cực chuyển đổi:

> Chuyển đổi trong không gian, âm thanh đánh thức màu sắc . Chỉ trong chốc lát, cả khu rừng nhất loạt nhuộm sắc vàng kì ảo.

> Chuyển đổi thời gian: màu vàng của rừng phách đã đưa thiên nhiên từ mùa xuân sang hè.

> Chuyển đổi cảm giác: từ thính giác để nghe âm thanh chuyển sang thị giác để cảm nhận màu sắc.

+ Chữ “đổ” là một sáng tạo của Tố Hữu. Ta ngỡ tiếng ve như một bát màu sóng sánh đổ loang, nhuộm vàng rừng phách khi hạ về.

- Con người:

+ Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Bắc chịu thương chịu khó, đồng thời còn là hình ảnh của con người tâm tình đọng lại trong nỗi nhớ thương của người về xuôi.

+ Hai chữ “một mình” thể hiện chiều sâu của nhớ thương trong xa cách miền ngược và miền xuôi.

* Bức tranh mùa thu

- Thiên nhiên:

+ Nếu ở ba mùa trên là cảnh ban ngày thì bức tranh mùa thu là cảnh đêm trăng Việt Bắc.

+ Tứ thu mở ra hai chiều không gian cao rộng của núi rừng mùa thu trong đêm trăng. Hai chữ “trăng rọi” gợi hình ảnh ánh trăng kẻ một đường cao từ bầu trời xuống núi rừng thẳng tắp. Từ đó gợi được vẻ đẹp thanh bình, thơ mộng của núi rừng.

+ Khung cảnh thiên nhiên đêm thu còn gợi không gian tâm tình cho cuộc chia tay, phù hợp với khúc hát giao duyên của người đi kẻ ở.

- Con người: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

+ “Nhớ ai” là một lời hỏi, đại từ “ai” mang tính phiếm chỉ, tạo cảm giác bâng khuâng lưu luyến trong nỗi nhớ.

+ Cái hay ở chỗ: Tố Hữu đã tạo ra một kết cấu hô ứng thú vị, mở đầu đoạn thơ là câu hỏi “Ta về mình có nhớ ta”, kết thúc đoạn thơ cũng là một câu hỏi nhưng đã bao hàm câu trả lời. Cả ta và mình cùng chung nỗi nhớ, cùng một tấm lòng son sắt lắng đọng.

+ Âm tình thủy chung: đã chạm đúng vào gốc rễ của đạo lí dân tộc, nâng niu cội nguồn ân tình ân nghĩa, “uống nước nhớ nguồn”. Đây là vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn con người Việt Nam.

2. Bức tranh Việt Bắc ra trận

a. Hình ảnh những con đường ra trận: (câu 1,2)

- Hai câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta/ Đêm đêm rầm rập như là đất rung ”  tái hiện lại không khí của thời đại kháng chiến chống Pháp. Từ mọi miền đất nước, những đoàn quân cùng dân công hướng về mặt trận với sự sôi động của những ngày tổng tiến công.

- Cụm từ “những đường Việt Bắc” vừa gợi ra một không gian rộng lớn khắc họa hình ảnh những con đường cụ thể trải khắp núi rừng, đồng thời còn mang ý nghĩa biểu tượng cho con đường cách mạng, con đường kháng chiến như Tố Hữu đã từng ngợi ca “Đường cách mạng dài theo kháng chiến”.

- Hình ảnh những con đường Việt Bắc đi liền với hai chữ “của ta” khắc họa tư thế làm chủ, tự tin, vững mạnh của quân và dân ta, đồng thời khẳng định Việt Bắc là mảnh đất tự do với một niềm tự hào sâu sắc.

- Hình ảnh con đường ra trận được đặc tả trong thời gian “đêm đêm”. Từ láy hoàn toàn này thể hiện một thời gian liên tục, gợi hình ảnh đoàn quân nối tiếp, bền bỉ, bất tận từ đêm này sang đêm khác.

- Hai chữ “rầm rập” vừa gợi  âm thanh vừa gợi hình ảnh diễn tả được sự đông vui, náo nức và sức mạnh của quân dân ta.

- Câu thơ sử dụng nghệ thuật so sánh “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” kết hợp với nhịp thơ nhanh, mạnh, âm hưởng thơ tưng bừng rộn rã khiến ta có cảm giác cả núi rừng như đang rung chuyển bởi sức mạnh của con người. Sức mạnh con người được đo bằng thước đo sông núi.

b. Hình ảnh đoàn quân (câu 3,4)

- Hai câu thơ xuất hiện từ láy mang giá trị tạo hình, biểu cảm “điệp điệp”, “trùng trùng” đã miêu tả hình ảnh đoàn quân ra trận dài vô tận tựa như núi rừng trùng điệp, đông đảo,  mạnh mẽ.

- Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan: Hình ảnh thơ kết hợp cảm hứng hiện thực và lãng mạn:

+ Đây là cảnh thực, người lính hành quân trong đêm có sao sáng dẫn đường, có thiên nhiên làm bạn.

+ Ý nghĩa tượng trưng: Cảm nhận như đất trời đang hành quân cùng người lính hay chính tầm vóc sừng sững của người lính vươn tới sao trời. Hình ảnh này ta từng gặp trong thơ Chính Hữu, nếu trăng trong thơ Chính Hữu biểu tượng cho khát vọng hòa bình thì ánh sao của Tố Hữu mang vẻ đẹp lí tưởng của niềm lạc quan chiến thắng. Từ đó khắc họa hình ảnh người lính anh hùng nhưng rất giản dị, lãng mạn.

+ Hình ảnh thơ còn khắc họa sức mạnh tư thế, vóc dáng của người lính sánh tựa sao trời. Đó là sức mạnh mang tầm vóc sử thi, là cảm hứng ngợi ca thường gặp trong thơ Tố Hữu.

c. Hình ảnh dân công (câu 5,6)

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

- Hai câu thơ khắc họa hình ảnh dân công sẻ núi san đường, tải lương thực, quân nhu ra chiến trường. Đây là hình ảnh rất hoành tráng của cuộc chiến tranh nhân dân

- Hình ảnh “đỏ đuốc từng đoàn” vừa gợi sự tấp nập đông vui vừa là biểu tượng cho ngọn lửa nhiệt huyết của lí tưởng sẵn sàng chiến đấu vì Tổ quốc, vừa là ngọn lửa ấm áp, nghĩa tình mà hậu phương dành cho tiền tuyến.

- Cách đặc tả Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay lấy ý tứ câu ca dao “trông cho chân cứng đá mềm” đã phản ánh sức mạnh diệu kì của nhân dân ta. Đó là sức mạnh lấn át cả thiên nhiên đất trời. Chính sức mạnh ấy đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

d. Hướng vào tương lai thể hiện niềm tin chiến thắng (câu 7,8)

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

- Hình ảnh thơ bắt nguồn từ cảm xúc hiện thực, đó là hình ảnh những đoàn xe nối đuôi nhau ra chiến trường, ánh đèn pha bật sáng xé tan màn đêm của núi rừng. Từ hình ảnh hiện thực này, Tố Hữu muốn ca ngợi sức mạnh của lực lượng cơ giới quân đội ta mới ngày nào còn yếm thế “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” trong những ngày tháng gian khó “Mênh mông bốn mặt sương mù” vậy mà giờ đây ánh đèn pha bật sáng đầy sức mạnh.

- Biện pháp nghệ thuật đối lập có tác dụng khẳng định niềm tin của con người vào ngày mai.

- Hai câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ:

+ Nghìn đêm thăm thẳm sương dày: muốn nói đến những năm tháng đau thương, nô lệ của nhân dân ta dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai.

+ Đèn pha bật sáng như ngày mai lên: là biểu tượng cho ngày mai tươi sáng, cho độc lập, tự do của dân tộc.

=>Hai câu thơ mang niềm lạc quan, tin tưởng mãnh liệt với âm hưởng lãng mạn cách mạng đã dựng nên bức tượng đài nước Việt Nam đi từ đau thương đến quật khởi, anh hùng: Nước Việt Nam từ trong máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

* Niềm vui chiến thắng (còn lại)

- Tố Hữu có cách diễn đạt đặc sắc, biến hóa để để diễn tả niềm vui chiến thắng dồn dập, giòn giã.

- Chất sử thi thấm đượm trong hình ảnh, từ ngữ mang sức mạnh của thiên nhiên vũ trụ, ở nhịp điệu dồn dập của chiến thắng.

- Sự xuất hiện của các địa danh diễn tả sức mạnh của dân tộc và những chiến thắng vang dội.

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao- Lạng, nhớ sang Nhị Hà...

Nhắc lại những chiến thắng ấy trong một niềm hào sảng cũng chính là biểu hiện của sự tri ân đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc đã hợp sức, giúp đỡ.

- Hình tượng cả dân tộc đứng lên:

Những đường Việt Bắc của ta

… Vui lên Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng

Khép lại đoạn thơ, tác giả cũng phác thảo ra một bản đồ vui toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng

Nhịp thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cùng với sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền gắn với các tin vui chiến thắng đã cho thấy tốc độ thần kì của thắng lợi. Hệ thống từ vui về, vui từ, vui lên … mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi niềm vui, từ VB niềm vui toả đi, và từ khắp nơi tin vui bay lại Việt Bắc. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.

- Câu thơ lục bát không trôi đi theo nhịp điệu êm ả ngọt ngào như lời ru mà chuyển sang nhịp hối hả, náo nức. Đó là nhịp hành quân như vũ bão, nhịp chiến thắng liên tiếp. Âm hưởng trữ tình da diết đã chuyển sang âm hưởng sử thi hào hùng.

=> Đoạn thơ sử dụng bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đối với người Việt Bắc, Việt Bắc không chỉ có những ân tình, ân nghĩa thủy chung mà còn rất can trường, dũng cảm. Vì thế Việt Bắc không chỉ là khúc ca ân tình mà còn là khúc ca hùng tráng tràn đầy niềm tin, không chỉ là bản tình ca mà còn là bản hùng ca của dân tộc.

3. So sánh

* Giống nhau:

- Hai đoạn thơ đều khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Bắc

=> Lòng yêu đất nước, quê hương của tác giả.

* Khác nhau:

- Bức tranh tứ bình khắc họa vẻ đẹp trong hòa bình, chủ yếu khắc họa bằng bút pháp lãng mạn. Bức tranh Việt Bắc ra trận là vẻ đẹp trong thời chiến, khắc họa bằng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

III. Kết bài:

- Khái quát kại vấn đề

Bài mẫu

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến  khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết " Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được thể hiện qua hai khổ thơ trên.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:  "Ta về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người". Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc  cho đoạn thơ.Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành  cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn. Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt  trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ  làm ta  liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun  trào từ giữa màu xanh của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy  là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất  ra nhiều  lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng  hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt  trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu  thơ vừa mang ngôn ngữ  thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ  thuật  nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị  trí, một tư  thế đẹp nhất - " đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do "Núi rừng đây  là của chúng ta/ Trời xanh đây  là của chúng  ta". Đấy  là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa  lá, của  trăm  loài đang cựa mình  thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết  theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở"  làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động " chuốt từng sợi  giang". Con người  đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là  phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng  lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như  làm cho ánh nắng của mùa hè và cả  tiếng ve kêu  râm  ran kia nữa cũng  trở nên óng vàng ra. Đây  là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có  tài  trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu  thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả. Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh  trăng xanh huyền ảo lung lunh dịu mát:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu Ấy tin thắng trận liên khu báo về”. Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Đoạn trích sau dưới là bức tranh sống động, hào hùng về khí thế tiến công như vũ bão của quân dân ta:

Những đường Việt Bắc của ta

.........

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng…

Nhà thơ đã tập trung thể hiện không khí hào hùng trong giai đoạn thứ ba của cuộc kháng chiến khi sức ta đã mạnh, người ta đã đông. Theo dòng hồi tưởng, nhà thơ dẫn dắt người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian là núi rừng rộng lớn, với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh, những âm thanh sôi nổi, dồn dập làm náo nức lòng người. Ánh sáng cách mạng đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, tràn đầy âm hưởng anh hùng ca. Giọng điệu dìu dặt, du dương ở những đoạn thơ trước đến đây đã chuyển thành giọng điệu dồn dập, rắn rỏi và phấn khích.

Tố Hữu miêu tả rất chân thực và sinh động khung cảnh chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến dịch qua hình ảnh những con đường đêm đêm rầm rập bước chân của bộ dội, dân công, bập bùng ánh sáng của lửa đuốc và ánh đèn pha của những đoàn xe ra tr

Trong đời sống bình thường, ban đêm là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, là thời điểm nghỉ ngơi yên tĩnh của con người. Nhưng trong chiến tranh, đêm thường là điểm khởi đầu của những trận đánh, những chiến dịch lớn nối tiếp nhau: Những đường Việt Bắc của ta, Đêm đêm rầm rập như là đất rung . Hai từ của ta thể hiện rõ ý thức làm chủ của người dân đối với đất nước, đồng thời thể hiện niềm tự hào về tính chất bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa kháng chiến.

Trên các nẻo đường ra hỏa tuyến, bộ đội, dân công với súng đạn, gánh gồng, với khí thế bừng bừng xung trận. Các từ tượng thanh và tượng hình như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử dụng rất phù hợp diễn tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi và sức mạnh như triều dâng thác lũ của quân dân ta. Hình ảnh so sánh: Đêm đêm rầm rập như là đất rung đặc tả quy mô lớn của các trận đánh chuẩn bị diễn ra. Tác giả đã thể hiện được sự thống nhất, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên trong một thời điểm lịch sử đặc biệt.

Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều rộng, trong bức tranh kháng chiến bằng thơ này còn có những nét vẽ theo chiều cao. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan là một nét vẽ như thế. Ánh sao trước hết là một hình ảnh thực; bên cạnh đó nó còn là hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng. Có thể hiểu ánh sao như ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi đường dẫn lối cho người chiên sĩ chiến đấu. Ba sự vật: ánh sao, mũi súng, mũ nan hợp thành một hình tượng khỏe khoắn, vững chãi về mặt tạo hình, phản ánh tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của quân dân ta.

Tuy tả cảnh đêm Việt Bắc nhưng bức tranh không thiếu các chi tiết nói về ánh sáng. Bên cạnh ánh sáng xanh của sao trời là ánh sáng đỏ của lửa đuốc, của muôn tàn lửa bay, của đèn pha bật sáng… Hai câu thơ " Dân công đỏ đuốc từng đoàn,/ Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay" vẽ ra một cảnh tượng rực rỡ và hừng hực khí thế bằng những nét bút gân guốc, mạnh mẽ. Cách nói thậm xưng bước chân nát đá diễn tả rất ấn tượng sức mạnh đạp bằng mọi gian khó của những đoàn người trên đường ra hỏa tuyến. Những bước chân dồn dập ấy đã làm cho núi rừng bừng thức. Màn đêm thăm thẳm sương dày bị xua tan bởi ánh đèn pha, gợi liên tưởng đến chiến thắng đã gần kề trước mặt. Hình ảnh so sánh trong câu: Đèn pha bật sáng như ngày mai lên thoạt nghe có vẻ cường điệu nhưng phải so sánh nhu thế thì nhà thơ mới nói hết được niềm phấn chấn đang tràn ngập lòng người trước sự lớn mạnh vượt bậc của quân đội ta khi cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn cuối cùng: giai đoạn tổng phản công giành thắng lợi:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng…

Tin thắng trận từ khắp các chiến trường trong cả nước dồn dập đổ về chiến khu Việt Bắc. Những cụm từ vui về, vui từ, vui lên vừa tạo được không khí phấn chấn, rộn ràng vừa biểu đạt ý: chiến khu Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng chiến và niềm vui thắng lợi từ khắp nơi dồn tụ về đó, để rồi từ đó lại tỏa đi trăm ngả.

Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của hàng loạt địa danh. Thơ ca kháng chiến có nhiều bài nhắc đến tên của những địa phương gắn liền với các sự kiện lịch sử. Chẳng hạn như bài Tây Tiến của Quang Dũng, bài Bên kia sống Đuống của Hoàng Cầm… Nhưng cách đưa địa danh vào thơ của Tố Hữu có khác. Nếu Quang Dũng chú ý tới những tên đất gợi ấn tượng về sự xa xôi, hoang dã, heo hút và bí ẩn; Hoàng Cầm chú ý tới những cái tên gợi lên những sắc màu truyền thống của quê hương thì Tố Hữu lại quan tâm tới những địa danh lừng lẫy chiến công mà tên gọi của chúng làm náo nức lòng người. Có thể nói ít khi thấy những địa danh bình thường mà lại chan chứa chất sử, chất thơ và vang vọng trong lòng người đến như thế.

Như vậy, hai đoạn thơ đều khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Bắc. Qua đó gửi gắm, thể hiện lòng yêu đất nước, quê hương của tác giả. Tuy nhiên, hai bức tranh cũng có những điểm khác nhau. Bức tranh tứ bình khắc họa vẻ đẹp trong hòa bình, chủ yếu khắc họa bằng bút pháp lãng mạn. Bức tranh Việt Bắc ra trận là vẻ đẹp trong thời chiến, khắc họa bằng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Viết về Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng, Tố Hữu không thể viết riêng về một vùng đất mà trở thành biểu tượng cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí của toàn dân tộc trong cuộc trường chinh vĩ đại. Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đẹp toàn bích trong thành công của bài thơ Việt Bắc . Nhà thơ nói về lí tưởng, về cách mạng, về truyền thống tinh thần của dân tộc, đất nước với tình cảm say mê nồng nhiệt, với những rung động của một trái tim yêu nước. Tiếng lòng của nhà thơ cũng là tiếng lòng của nhân dân kháng chiến, của dân tộc Việt Nam anh hùng.


Cùng chủ đề:

Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng
Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
Chất sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu
Chất thơ trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Cho hai đoạn thơ trong bài thơ Việt Bắc, đoạn 1 thường được coi là bức tranh tứ bình của bài thơ Việt Bắc, còn đoạn 2 là bức tranh Việt Bắc ra trận. Hãy phân tích và so sánh vẻ đẹp của hai bức tranh ấ
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua nhân vật Tnú
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi
Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình
Chủ nghĩa yêu nước - Một trong hai nguồn cảm hứng lớn nhất của văn học dân tộc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 - Ngữ Văn 12
Chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa - Ngữ Văn 12