Lòng nhân ái của Thạch Lam qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
1. Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam.
1. Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.
2. Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: “Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương”. Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khoải, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khoảnh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện… mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
3. Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân chính trong lời tựa Gió đầu mùa : “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ khí giới đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn lên”. Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình chúng ta rất dễ bỏ qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực – thi vị trữ tình, với những ấn tượng và cảm giác không thể phai mờ về cuộc sống và con người phố huyện.
4. Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian được dựng lên bằng hồi tưởng giúp ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hoàn cảnh đầy ám ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp sống chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh “ếch nhái” đến “tiếng muỗi vo ve”. Sự yên tĩnh không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên, một đôi mắt đầy bóng tối. “Cái giờ khắc của ngày tàn” cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
5. Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Những nét phác hoạ đơn sơ ấy làm tăng nét hiện thực điển hình của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát tinh tường của nhà văn mà còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của cuộc sống để từ đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều đặn “từ chập tối cho đến đêm”, một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tối, một gia đình bác Xẩm… những con người ấy đã tô đậm cuộc sống phố huyện về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
6. Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng ngôn ngữ giàu sức gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm. Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm tượng trưng trong văn Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về ánh sáng. Ông dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm nhận của một cô bé Liên – bóng dáng người chị thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất của tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối với con người bé nhỏ.