Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang — Không quảng cáo

Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Bài 2: Cấu tứ và hình ảnh trong thơ trữ tình - Văn mẫu


Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang

I.Mở bài - Giới thiệu tác giả tác phẩm. - Giới thiệu hai khổ thơ đầu.

Dàn ý chi tiết

I.Mở bài

- Giới thiệu tác giả tác phẩm.

- Giới thiệu hai khổ thơ đầu.

II. Thân bài

1.Khổ 1

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

a.Thiên nhiên

+ Mở ra hình ảnh dòng sông mênh mang sóng nước. Một con thuyền nhỏ bé trôi xuôi trên dòng nước và một cành củi khô bồng bềnh giữa sóng nước bao la.

+ Bức tranh thiên nhiên quen thuộc mang đậm màu sắc cổ điển đường thi với hình ảnh dòng sông, sóng nước, con thuyền.

b. Tâm trạng con người

+ Từ láy sóng đôi “điệp điệp” và “song song” được đặt trong thế đăng đối trên dưới đã hòa nhập sóng nước vào sóng lòng. Lời thơ mở ra một không gian mênh mang và nỗi buồn trong câu một đến câu ba chuyển thành nỗi sầu theo những con sóng gối lên nhau vừa kết tụ vừa lan tỏa

+ Nhịp 2-2-3 trầm buồn tượng như nhịp trôi của dòng sông cũng là nhịp trôi của dòng thời gian.

+ Cảm giác như dòng tràng giang đang trôi chảy giữa đôi bờ một bên vô cùng thời gian, một bên vô tận không gian.

+ Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” gợi cảm giác trôi nổi.

+ Cặp tiểu đối “thuyền về” - “nước lại” gợi cảm nhận về sự chia lìa. Con thuyền trôi trên mặt nước mà như đang chia bóng với dòng nước, khơi gợi nỗi buồn về thân phận nổi lênh vô định.

+ Phép đảo ngữ “củi một cành khô” gợi nỗi buồn khô héo. Chi tiết thơ đầy ám ảnh bởi nó là kết quả của quá trình lao động và lựa chọn kỹ lưỡng công phu của nhà thơ.

c. Tiểu kết

+ Sự đối lập giữa hình ảnh dòng sông bao la rộng lớn với những tạo vật nhỏ bé hữu hạn gợi ra nỗi buồn về sự chìm nổi lưu lạc.

+ Hình ảnh Tràng Giang không chỉ là dòng sông mà còn là dòng đời và con thuyền của cuộc đời trôi dạt trên mặt nước không chỉ là những hình ảnh thực mà còn là biểu tượng cho kiếp sống lênh đênh lạc loài trên dòng đời trôi chảy.

2.Khổ 2

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

a.Thiên nhiên

+ Không gian ba chiều mở ra vô tận và giãn nở cùng từng vạt nắng chiếu xuống lòng sông đẩy bầu trời lên cao thêm, vũ trụ trở nên cao chót vót. “Sông dài, trời rộng” dường như không còn đường biên.

+ Giữa không gian bao la ý những “cồn cát” nhỏ bé đìu hiu và tiếng chợ chiều vọng lại xơ xác mơ hồ như có như không.

+ Thiên nhiên hiện ra như một bức tranh vừa hoang sơ vừa cổ kính, và khi đối diện thiên nhiên ấy con người dường như đang đi trên ranh giới của cõi trần thế với cõi hư vô.

b. Tâm trạng con người

+ “Lơ thơ” đầu câu, “đìu hiu” cuối câu tô đập cảm giác bơ vơ của cái tôi trữ tình. Nhà thơ thấy mình giống như những cồn nhỏ bị vây bọc bởi sự trống vắng quạnh hiu.

+ “Sâu chót vót” là kết hợp từ độc đáo thể hiện cảm nhận mới mẻ. “Chót vót” là từ láy chỉ chiều cao, ở đây tác giả dùng để chỉ chiều sâu hun hút của cái ngước nhìn lên như muốn xuyên vào lòng vũ trụ để cảm nhận cái thăm thẳm hoang lạnh trong đáy hồn mình cũng như trong lòng nhân thế

+ “Dài rộng”, “cô liêu” ở câu dưới diễn tả tâm trạng cô quạnh

+ Âm thanh tiếng chợ chiều gợi sự sống tan tác tàn lụi, hiển hiện giữa không gian 3 chiều mơ hồ hư thực.

c. Tiểu kết

- Sự đối lập giữa hữu hạn và vô hạn gợi nỗi buồn hoang vắng, cô liêu của một cái tôi mất mối liên hệ với vũ trụ, không tìm thấy điểm tựa ở cuộc đời.

III. Kết bài

- Nêu cảm nhận của bản thân về hai khổ thơ.

Bài tham khảo Mẫu 1

Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt hai khổ đầu bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song, Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Nỗi ám ảnh thời gian luôn vận động theo quy luật tuyến tính, một đi không trở lại đã khiến Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt trong từng nhịp điệu sống. Còn nỗi ám ảnh không gian đã mang vào trong thơ Huy Cận những thế giới rộng lớn, mênh mông sầu mộng của thi sĩ. Ở Tràng Giang cũng không phải là ngoại lệ, mở đầu bài thơ là hình ảnh sông dài với những đợt sóng buồn điệp điệp nối đuôi nhau. Cái hay ở đây, là cách nhà thơ dùng từ “tràng giang” để gọi nó, nó gợi màu sắc cổ điển, vì thế con sông trong thơ Huy Cận dường như gọi về bao nhiêu nỗi niềm xưa, bao nhiêu dấu rêu phong, bao nhiêu những con sông hoàng hà cổ đại, từ đó chảy trên dòng thời gian bất tận để đưa người đọc xuôi dòng về hiện thực.

Thuyền và nước, nỗi niềm của sự chia rẽ được thể hiện rất rõ trong nỗi sầu ở câu thơ thứ ba. Nỗi sầu của dòng sông, nỗi buồn man mác của dòng chảy bất tận về muôn ngã rẽ, mang theo nỗi lòng của mình để hướng về muôn nơi, sự chia cắt của thuyền và nước, tưởng như là sự chia cắt của lòng người khiến cho sự vật cũng như tan tác, chia li. Câu thơ thứ tư, mới thực là sự đắc địa và cẩn trọng trong cách chọn từ của Huy Cận. Củi, đã là sự vật gợi sự khô héo, tàn lụi, thậm chí là mất dần sự sống. Tiếp đến, lượng từ “một’ gợi sự đơn lẻ đơn độc và lạnh lẽo trên dòng sông bất tật, thế nhưng không chỉ một mình, đơn độc mà cành củi ấy còn vô phương vô định lưu lạc về chân trời nào. Ở đây có thể thấy, Huy Cận đã đưa vào trong thơ những chất liệu từ đời thực, những chất liệu sống để diễn tả một cách chân thực, mộc mạc nhất sự cô đơn, mất phương hướng thậm chí là bế tắc của chính tác giả, hay của những cái tôi thơ Mới lúc bấy giờ. Nếu trong Tràng Giang, Huy Cận mượn cành củi khô để diễn tả tình cảnh lưu lạc, hoang hoải trong tâm hồn của những cái tôi thơ mới, thì Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.

Rõ ràng, Huy Cận đã đưa vào thơ một cách trần trụi rất riêng những chất liệu của đời sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Thiên nhiên một lần nữa xuất hiện trong thơ nhưng chỉ là những cảnh vật gợi sự khô héo, đìu hiu tàn lụi. Những cồn nhỏ như đang nương vào cơn gió để khe khẽ kể về nỗi buồn của mình. Và ngọn gió, dường như cũng mang trong nó nỗi buồn man mác của cảnh vật mà hồn thơ âu sầu ảo não của Huy Cận đã họa thành. Tiếp đến, chợ vốn là là hình ảnh của không gian sống, là biểu tượng của cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng chợ ở đây, cũng là chợ chiều đã vãn. Cảnh vật héo buồn, sinh hoạt và cuộc sống của con người cũng đi dần vào thế nghỉ ngơi, vào sự buồn bã hiu quạnh. Hai câu thơ cuối có thể nói là tuyệt bút nên thơ của Huy Cận, cách dùng từ độc đáo của thi nhân đã lột tả một cách chính xác cảm giác của nhân vật trữ tình khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Những chuyển động đối lập nhau : lên-xuống cùng với cách tạo vế đối nắng xuống, trời lên tạo cảm giác như một chiếc tù giam lỏng dồn nén con người ở giữa cảm thấy ngột ngạt, bí bách và chán chường trong sự vận động xoay guồng của tạo hóa. Sâu chót vót là cụm từ độc đáo, vừa diễn tả độ sâu, vừa diễn tả độ cao, vừa tạo cảm giác mở về sự cảm nhận của người đọc. Và rồi tiếp nối mạch cảm xúc ấy, là cảm giác cô liêu, cô đơn đến cùng cực của con người giữa sông dài trời rộng, giữa sự vô tận.

Chỉ với 8 câu thơ, Huy Cận đã yểm vào đó linh hồn cho từng câu chữ, để bắt cảnh vật sống dậy với chất buồn thấm đẫm trong từng thớ vỏ, đồng thời tạo nên cảm giác âu sầu ảo não vốn rất đặc trưng trong thế giới thơ Huy Cận.

Bài tham khảo Mẫu 2

Có lẽ thiên nhiên đẹp và bao la đại ngàn luôn làm khuấy động nỗi lòng và tâm thức con người, nó khoáy sâu thẳm vào lòng người khiến nỗi sầu càng sầu hơn, vì vậy việc dùng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng đã được rất nhiều thi sĩ sử dụng trong thơ trung đại. Nhưng Huy Cận đã tiếp thu phong vị đó vào tác phẩm "Tràng giang" của mình, phổ thêm những nét mới lạ của thơ hiện đại; qua đó, Huy Cận đã tạo nên cho người đọc những ấn tượng về không gian của tác phẩm, đặc biệt là trong hai khổ thơ đầu.

Ngay từ tên bài thơ "Tràng giang" và lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng sông dài", một không gian sông nước bao la đã hiện hữu. "Tràng" tức là dài, "Giang" là sông. Sông dài, trời rộng mở ra một không gian bao la, tươi đẹp, nhưng buồn, nhưng dấy lên trong tâm hồn tác giả một nỗi "bâng khuâng" lạ kỳ.

Khổ thơ đầu tiên, Huy Cận viết:

"Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song, Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả, Củi một cành khô lạc mấy dòng".

Không gian bao la, rộng lớn hiện hữu trước mắt, nhưng cũng bởi vậy mà con người càng cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Giữa bạt ngàn của sông nước, con người nhỏ bé, lặng lẽ, cô đơn. Đứng trước không gian ấy, nỗi lòng Huy Cận cũng dâng trào. Từng đợt sóng xô trên "Tràng giang" là "điệp điệp" nỗi buồn trong tâm hồn thi sĩ. Sóng của thiên nhiên vỗ nhẹ thì cơn sóng lòng dào dạt ùa về. Và từ đây, một không gian thứ hai xuất hiện đó là không gian của tình cảm, cảm xúc trong nỗi lòng tác giả. Nhìn về phía sông nước bao la, tác giả thấy một con thuyền cứ trôi theo mái nước song song. Có lẽ con thuyền ấy trôi rất nhẹ, không có chút mệt mỏi, nhưng vô thức và cô đơn. Con thuyền cứ trôi mãi theo dòng nước song song, hai chữ "song song" như hai đường thẳng dài tít tắp, cứ chạy mãi mà không bao giờ gặp, cũng giống như thân phận của con thuyền kia, vô định và bơ vơ, lạc lõng. Nhìn con thuyền mà nỗi sầu của tác giả như dâng cao, không gian rộng lớn của thiên nhiên đã thôi thúc không gian lòng, khiến tác giả cảm thấy nỗi sầu của mình cũng vô định như con thuyền ấy, "sầu trăm ngả"

Một hình ảnh buồn hiện lên trước mắt tác giả: "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Không biết cành củi đáng thương ấy là một vật hữu hình có thực, hay nó là một hình ảnh chợt xuất hiện trong nỗi cô đơn của Huy Cận, bởi nó cũng nhỏ bé và lạc lõng như con người. Giữa dòng đời bao la, giữa sự xô đẩy của từng dòng sóng, nó cứ trôi lạc lõng, lênh đênh. Nỗi sầu trong tác giả càng sầu hơn. Việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bao la là một nét quen thuộc trong đường thi, nhưng Huy Cận đã nhờ nó mà thầm nói lên nỗi lòng của mình, nhờ không gian thiên nhiên làm nổi lên không gian tình cảm.

Ở khổ thơ thứ hai, vẫn bắt gặp những hình ảnh trải dài theo không gian, nhưng cái nỗi cô đơn trong tâm trạng tác giả càng trải dài hơn nữa:

" Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

Không gian hiện ra không chỉ được tác giả quan sát bằng thị giác, mà tác giả còn lắng tai nghe và càng sầu hơn - một nỗi sầu về nhân thế, về kiếp người, về cuộc sống thời đó. Đôi mắt tác giả buồn theo và nhìn xung quanh cảnh vật, đôi tai nhạy cảm lắng nghe những âm thanh thưa thớt, vãn dần ở xa xa. Cồn nhỏ lơ thơ, nhỏ bé, cơn gió thì thổi nhẹ nhưng đìu hiu, như cũng buồn giống tác giả. Huy Cận tinh tế cảm nhận cơn gió ấy, sao mà buồn, sao mà lặng lẽ, cô liêu.

Tiếng làng xa ở nơi đâu thưa thớt vãn buổi chợ chiều, cứ nhỏ dần, nhỏ bé trong cái lớn mạnh của thiên nhiên. Huy Cận đưa mắt nhìn lên bầu trời kia, tâm trạng buồn của Huy Cận cũng phổ vào bầu trời bao la ấy một nỗi buồn sâu thẳm. Bởi vậy khi nắng xuống, trong con mắt Huy Cận, trời không cao mà lại "sâu chót vót", cùng như không gian sâu thẳm của nỗi buồn. Sự suy tư của Huy Cận như đi vào bầu trời ấy, khoét sâu đến tận vũ trụ xa thẳm ngoài kia, buồn đến lạ lùng. Nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la ấy, vẫn trời rộng, sông dài, vẫn bến cô liêu và trong lòng tác giả vẫn ồn ào của một nỗi sầu, một nỗi bâng khuâng cô đơn và vắng vẻ. Cảnh quan, không gian bao la của thiên nhiên mở rộng ra trước mắt Huy Cận nhưng mọi thứ đều mờ ảo, mang một cái nét rất trơ trọi, bâng khuâng. Tuy mờ ảo nhưng lại mang một triết lý sâu xa. Mọi vật hữu hình hiện ra trong mắt Huy Cận đều buồn, đều cô đơn, cũng như thời thế đất nước bấy giờ, cũng băn khoăn và lạc lõng, trôi nổi vô định như con thuyền, nguy hiểm và nhỏ bé như cây củi khô lạc giữa dòng sông. Con người như trôi lạc giữa dòng đời, dòng cuộc sống. Bởi vậy, tuy mọi thứ đều mờ ảo như được phủ một làn khói buồn nhưng đều tô đậm tính triết lý về cuộc sống và con người, cũng như một nỗi buồn của người con thương đất nước - Huy Cận.

Tác phẩm "Tràng giang" cho đến tận bây giờ vẫn là một đỉnh cao nghệ thuật mà khó ai có thể vươn tới, bởi sự khéo léo và tinh tế của tác giả trong việc kéo hợp giữa không gian thiên nhiên với không gian tâm tình, quan trọng hơn là vì "Tràng giang" mang một triết lý sâu xa về cuộc đời, về đất nước. Tuy không thể hiện trực tiếp nhưng Huy Cận đã in bóng vào "Tràng giang" một tình yêu tổ quốc, cũng sự lặng lẽ buồn trước cuộc sống thời bấy giờ. Vì vậy, "Tràng giang" luôn đứng vững và đứng cao trong nền văn học nước nhà, cũng như trong trái tim của người đọc mãi về sau. Một nỗi buồn đã qua đi từ lâu, nhưng dư vị ấy, cảm giác ấy, nỗi buồn ấy cứ đọng mãi với con người sau này mỗi khi đọc "Tràng giang", khiến người ta phải suy ngẫm về nhân tình và cuộc đời.

Bài tham khảo Mẫu 3

“Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Với Huy Cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng của ông được khơi nguồn từ đó và đọng lại ở “Tràng Giang” điều đó được thể hiện trong hai đoạn thơ đầu của bài thơ.

“Thơ là tiếng nói của tình cảm và cảm xúc. Nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn từ cũng chỉ là xác chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Trước hết thi sĩ phải là người có tâm hồn, giàu rung cảm,cảm thông sâu sắc trọn vẹn với khoảnh khắc của cuộc đời thì cảm xúc mãnh liệt mới dạt dào được. Chính những cảm xúc đó đã thôi thúc tác giả sáng tác về quê hương với hình ảnh thiên nhiên quen thuộc. Huy Cận với những rung cảm, ông đã chuyển hóa thành cảm xúc mà viết thành thơ. Và Tràng giang là một trong những tác phẩm sắc của ông, bài thơ được gợi cảm xúc và một buổi chiều năm 1939 tác giả đứng ở bên bờ Nam Bến Tràng, trước cảnh sông Hồng mênh mang sông nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về, thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé với vũ trụ bao la. Nên ông đã viết bài thơ này, và hai khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh sông Hồng mênh mang là những nỗi buồn vạn cổ của thi sĩ trước cảnh vật

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng Làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Mở đầu là cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, ở khổ thơ đầu tác giả sử dụng một loạt các từ: “thuyền, nước” là các từ mà nhà thơ xưa hay dùng để miêu tả cảnh thiên nhiên đẹp đẽ. Đây như là một bức tranh thủy mặc, đầy đủ cảnh sông nước lãng mạn, tĩnh lặng êm đềm nhưng lại buồn đến tê tái. Nói về nỗi buồn ấy, Hoài Thanh đã nhận xét: “thiên nhiên trong thơ mới đẹp nhưng lại thấm đượm Nỗi buồn da diết bâng Khuâng”. Nỗi buồn đó lại được Huy Cận lý giải rằng “chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên kéo dài triền miên”. Đó là nỗi buồn của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan, có lẽ thế nên trong dòng Tràng Giang chỉ có một giải buồn bát ngát

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song”

Từ “điệp điệp” là gợi tả những con sóng gợn lên hết lớp này đến lớp khác, triền miên vô tận. Buồn điệp điệp miêu tả cái buồn thiên nhiên nhưng thực chất nó đang diễn tả một nỗi buồn của thi nhân, đang gợn lên theo từng đợt sóng. Những con sóng vỗ vào bờ. Thuyền và nước là hai cảnh vật luôn đi cùng nhau gắn bó với nhau không bao giờ xa cách, vậy mà trong mắt Huy Cận nó trở nên bơ vơ lạc lõng. Từ đó mà nỗi sầu của nhà thơ lan tỏa ra vũ trụ “sầu trăm ngả” ở đây không gian vừa được mở ra về chiều rộng, vừa vươn lên theo chiều dài. Vì vậy hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “trăng cao” của Đỗ Phủ

“vô biên niên mộng tiêu tiêu hạ Bất tận Trường Giang cổ cổ lai”

Thuyền là hiện diện của sự sống con người nhưng rồi sự xuất hiện ấy cũng chỉ lướt qua trong chốc lát, sau đó nó lại nép mình vào bến bờ. Trả lại sự bình yên, nhìn luồng sóng “Con thuyền xuôi mái” Đây là một sự liên tưởng đến sự lạc lõng kiếp sống trôi nổi, phải chăng tác giả cũng từng sống trong hoàn cảnh ấy.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Ở hai câu thơ này Huy Cận đã sử dụng phép đối hết sức táo bạo. Chỉ đối ý, đối hình mà câu thơ vẫn cân xứng hài hòa con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng Trường Giang. Trong thơ của Huy Cận đã nói nhiều đến nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu. Đến bài thơ này ta lại bắt gặp một cái xấu nữa “sầu trăm ngả” không chỉ với ba từ ấy thôi ta đã thấy sầu của thi sĩ trải dài khắp cảnh vật nơi đây. Nếu trong thơ Xưa thi sĩ thường dùng các chất liệu tùng cúc trúc mai, làm chất liệu sáng tác thì ở đây Huy Cận lại đưa vào trong thơ một hình ảnh rất đỗi bình thường và quen thuộc “Củi khô” nhận xét về cành Củi khô đó Nguyễn Đăng Mạnh đã viết “lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca nhân loại có một cành củi khô trôi dạt giữa dòng trong thơ Huy Cận”. Như nỗi buồn của kiếp người trong xã hội cũ, khổ thơ này được xem là khổ thơ đặc sắc nhất của bài thơ, vì ở đây mang âm điệu buồn tê tái, khám phá được ở đó là cảnh vật thiên nhiên tràn ngập nỗi buồn, da diết… cảnh trời rộng sông dài ở đây diễn tả sự mênh mang, trống rỗng thể hiện nỗi buồn triền miên của Huy Cận và cảnh sông Hồng.

Tiếp với nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu ấy, nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Bức tranh sông nước được vẽ thêm đất, thêm làng nhưng vẫn buồn đến tê tái, nỗi buồn ấy được gợi tả từ những cồn nhỏ, thêm vào đó là sự hiu hắt thổi nhẹ của gió, sự tĩnh lặng vắng vẻ của cảnh vật,

“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Huy Cận nói ông đã được đọc hai chữ đìu hiu ấy từ Chinh Phụ Ngâm

"Non kì quạnh quẽ trăng treo bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò”

Cảnh sắc trong Chinh Phụ Ngâm đã vắng lặng, hiu hắt nhưng cảnh trong Tràng Giang lại vắng vẻ hiu hắt hơn. Từ láy lơ thơ diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn nhỏ mọc lên giữa lòng trắng xanh thể hiện nỗi buồn man mác theo gió nhẹ thấm lên từng cảnh vật, nhà thơ muốn tìm đến hơi ấm của con người để xua bớt đi cái lạnh lẽo, hiu quạnh ở đây nhưng

“đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Tiếng chợ ở đâu không xác định được, từ xưa Nguyễn Trãi đã dùng vẻ âm thanh ấy trong bài Cảnh Ngày Hè

“lao xao chợ cá làng Ngư Phủ Dắng dỏi Cầm ve lầu tịch dương”

Âm thanh của tiếng chợ vãn đã mất dần và không xác định được. Như vậy nhà Thơ lấy động tả tĩnh để miêu tả nỗi buồn sâu lắng của thi sĩ, hai câu thơ tiếp của khổ thơ bức tranh vô biên của Tràng Giang đã đạt đến sự khôn cùng

“nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Đến đây Huy Cận miêu tả không gian ba chiều giữa cảnh và người, thi sĩ như một vật nhỏ bé chơi vơi giữa bến đò với những vạt nắng trên bầu trời chiếu xuống mặt đất trong xanh, khiến ta liên tưởng đến bầu trời xanh được đẩy lên cao hơn, xa hơn. Ở đây tác giả không dùng chữ “cao chót vót” mà lại dùng “sâu” để diễn tả độ cao của trời xanh, từ đó cho chúng ta thấy rằng đứng trước cảnh vật ấy con người càng lạc lõng nhỏ bé cô đơn đến tột cùng. Chính sự lạc lõng ấy đã tạo nên cho hai khổ thơ này một nỗi buồn tê tái, mang đậm cảm xúc tình cảm của thi sĩ, và nỗi buồn ấy ẩn chứa nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu của tác giả.

Thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại những trang thơ của Huy Cận ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ vừa mang đậm phong cách của Huy Cận, vừa là một dấu son chói lọi trong nền thơ ca Việt Nam và trong lòng bạn đọc.


Cùng chủ đề:

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang
Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang
Phân tích hành trình cuộc đời nhân vật Chí Phèo
Phân tích hành trình đi tìm vẻ đẹp của dòng sông Hương nơi đầu nguồn
Phân tích hình tượng dòng sông Hương trong bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang
Phân tích khổ thơ thứ ba bài Tràng giang