Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài — Không quảng cáo

Văn mẫu 12 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 12 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vợ chồng A Phủ


Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ: Từ tủi nhục cay đắng của kiếp con dâu gạt nợ, Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc.

Đề bài

Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Lời giải chi tiết

Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi“xưa nay hiếm”, ông đã có gần 200 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ; ông viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. Dế Mèn phiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây... là những tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa yêu thích.

Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dài hơn nửa năm. Ông đã viết truyện Vợ chồng A Phủ, qua đó nói lên sự thống khổ của người Mèo ở Tây Bắc và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến.

Truyện gồm có hai phần:

+Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài;

+Phần 2: Mị và A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất khi tác giả nói về bi kịch và sự vùng dậy của nhân vật Mị.

Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, thì mẹ Mị mất đã lâu rồi, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tâm hồn Mị. Năm nào hai bố con Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Mị làm nương giỏi, thổi sáo hay, nhiều chàng trai mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêu và tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị đã bị A Sử, con trai Pá Tra bắt cóc đem về “cúng trình ma”. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khóc và cất lời than: ''Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thể nào khác được rồi!”.

Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái Tết ấy... Bố Mị đã già, lại càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như hoa xuân chưa kịp nở đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng “Mặt buồn rười rượi”. Nơi Mị ở là một cái buồng “kín mít” chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô cảm vô hồn, ngày “Càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Bao mùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Như một linh hồn chết “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa". Hình ảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đá, đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiều thương xót mênh mông về một kiếp người oan khổ - con dâu gạt nợ!

Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử. Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố “úp mật xuống đất, nức nở”. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố đã già, đã ốm yếu quá rồi, lấy ai làm nương ngô giả được nợ? Mị không nỡ chết! Mị không thể chết! Thương bố đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa". Quẳng nắm lá ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặt khóc, Mị đành trở lại nhà Thống lí, cam chịu mọi cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mị nhận hết mọi đau khổ vào mình. Lòng hiếu thảo, đức hi sinh của người con gái vùng rẻo cao thật là đẹp, đáng quý trọng.

Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị còn trẻ. Tết lai đến, ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng vọng lại. Mi “Thiết tha bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thối sáo:

... Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu

Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịm mặt... Mị nhớ lại thời con gái. Mị thấy lòng minh “phơi phới trở lại”, rồi nhiên “vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của trai gái làng Mèo đã “đánh thức” bao nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc của người phụ nữ bất hạnh này! Mị có ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...”. Có biết bao người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Mị cay đắng nghĩ đến thân phận mình: “A Sử với Mị không lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm ngón trong tay. Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáo gọi bạn yêu lại làm lòng Mị bồi hồi:

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi.

Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay cái váy hoa... những hành động ấy diễn ra ngay trước mặt thằng A Sử. Mị phải trả giá đau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”. Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đau không cựa được”, “đau nhức”, “đau đứt từng mãnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khố thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế qua tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao! MỊ có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Ông đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của thẳng A Sử và chỉ rõ: việc bắt Mị làm con dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man. Hành động “nổi loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào, con ma nào có thể làm lụi tàn được, vùi dập được nỗi khát khao tinh yêu, hạnh phúc trong lòng người phụ nữ trẻ, người con dâu gạt nợ.

Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trong buồng như người đàn bà nọ. Mị mỗi ngày một tê dại hẳn đi. Đêm mùa đông ở vùng núi Hồng Ngài dài và lạnh. Mị buồn chỉ chợp mắt được từng lúc, rồi lại thức sưởi âm suốt đêm. Mị sống trong tâm trạng cô đơn “chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Mị và A Phủ như hai số kiếp tiền định cùng trải qua bao gian khổ dập vùi. A Phủ, một kẻ tứ cố vô thân, vì tội đánh con quan mà bị đánh trói, bị làng bắt phạt vạ 100 đồng bạc trắng, trở thành người vay nợ, kẻ ở nợ, phải làm con trâu con ngựa cho nhà thống lí "đời này, đời con, đời cháu” của A Phủ cũng phải thế! Họa vô đơn chí! Rừng động, A Phủ đi chăn bò để hổ kéo về bắt mất một con. Thống lí Pá Tra mắng chửi A Phủ là “quân ăn cướp làm mất bò tao!” Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc bằng một cuộn dây mây trói đến chết nếu không bắt được hổ về! Bị trói đứng suốt mấy ngày đêm, hai hõm má của A Phủ đã “xám đen lại”. Nửa đêm, qua ánh lửa, Mị “lé mắt trông sang" kẻ chịu nạn rồi xúc động nghĩ: “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Rồi Mị thương thân phận mình, thương người đàn bà ngày trước bị trói đến chết ở nhà này! Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác!”. Mị vừa lo vừa sợ phải thế mạng vào cái cọc ấy một khi A Phủ trốn thoát. Nghĩ thế, trong tình cảnh này “làm sao Mị cũng không thấy sợ...”. Bếp lửa tàn, nhà tối bưng, Mị như có thêm sức mạnh. Mị đã dùng dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Một cảnh dữ dội,  khủng khiếp diễn ra. Như ra lệnh, Mị giục A Phủ: “Đi ngay!” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy! Mị đứng lặng trong bóng tối, Mị băng đi nói thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: “A Phủ cho tôi đi!... ở đây thì chết mất!”. A Phủ chi kịp nói với người đàn bà chê chồng vừa cắt dây trói cứu mình: “Đi với tôi!”. Mị và A Phủ   dìu đỡ nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài “cái đêm hôm ấy, đêm gì?”. Đó là cái đêm hãi hùng mà rất đáng nhớ đối với Mị và A Phủ.

Hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn là một tình huống dữ dội phản ánh bước nhảy vọt về ý thức và tâm lí của nhân vật Mị. Mị vừa thương mình, vừa thương người, Mị căm thù cái ác đã chà đạp lên cuộc đời. Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là cắt đứt sợi dây oan nghiệt đã biến người thành nô lệ súc vật nhục nhã, đau thương. Mị đã giành được tự do và hạnh phúc. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng. Mị có một sức sống tiềm tàng kì lạ!

Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tô Hoài. Mị là một cô gái duyên dáng, hiếu thảo giàu tình thương và có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Tính cách Mị được miêu tả trong quá trình phát triển theo quy luật cuộc sống. Mị chỉ biết khóc, Mị ăn lá ngón... Mị lầm lũi... Mị khao khát hạnh phúc, tình yêu. Tâm hồn Mị được hồi sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó là trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng rẻo cao ngày xưa. Cuộc đời của Mị đã từ đau thương, nô lệ trở thành con người hạnh phúc, tự do.

Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ Từ tủi nhục cay đắng của kiếp con dâu gạt nợ. Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc. Cái hương vị cuộc đời ấy thật đáng quý và sáng giá biết bao. Tô Hoài đã dành cho nhân vật Mị sự cảm thương sâu sắc đầy tình người.


Cùng chủ đề:

Phân tích nghệ thuật xây dựng hai chân dung phụ nữ điển hình trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân
Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa
Phân tích nhân vật Chiến trong Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và nhân vật Dít trong Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài
Phân tích nhân vật Mị và A Phủ giai đoạn ở Hồng Ngài trong Vợ chồng A Phủ để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
Phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa
Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Phân tích nhân vật Tnú - Một dũng sĩ phi thường của làng Xô Man thời kháng chiến chống Mĩ