Phân tích nhân vật Xúy Vân - Văn mẫu 10 KNTT — Không quảng cáo

Văn mẫu 10 Kết nối tri thức - Nghị luận xã hội, nghị luận văn học lớp 10 KNTT Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian - Văn mẫu 10 Kết nối


Phân tích nhân vật Xúy Vân trong Xúy Vân giả dại

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời của dân tộc ta.

Mẫu 1

Lời giải chi tiết:

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời của dân tộc ta.

Những vở chèo như “Quan Âm Thị Kính”, “Trương Viên”, “Chu Mãi Thần”, “Kim Nhan”… rất nổi tiếng, được các thế hệ ông bà, cha mẹ chúng ta yêu thích. Sau mùa gặt bội thu hay đầu xuân, nhiều làng quê mở hội chèo, tiếng trống chèo rung lên sau luỹ tre xanh, gợi lên bao xao xuyến trong lòng người:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay… ”

(Nguyễn Bính)

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình.

Những trích đoạn như “Thị Mầu lên chùa ”, “Xuý Vân giả dại ”, “Thị Phương dắt mẹ chồng chạy giặc”, “Tuần Ty gặp đào Huế”… được nhiều người yêu thích, xem mãi vẫn muốn xem, không chán.

Trích đoạn “Xuý Vân giả dại” nằm trong phần hai vở chèo “Kim Nhan”. Xa chồng lâu ngày, Xuý Vân dan díu với Trần Phương, bị dụ dỗ, nàng giả điên giả dại, lập mưu để Kim Nhan li dị. Với ánh mắt bốc lửa, tiếng hát đắm say, với bước đi, điệu lượn, cánh tay múa… như điên cuồng, nhân vật Xuý Vân từng để lại nhiều ấn tượng về lửa tình, về bi kịch tình yêu trong lòng khán giả. Nhiều nghệ sĩ chèo đã thành danh qua vai chèo “Xúy Vân giả dại”.

Mấy câu mở đầu, Xuý Vân xuất hiện (chưa xưng danh) từ nói lệch, đến hát xuôi, cô nàng quay cuồng với tâm trạng dở tỉnh dở điên, dở ngây dở dại. Cất tiếng than bà Nguyệt (trách duyên số) rồi réo cô đồng, rồi cất tiếng hát nói về con đò, con đò tình duyên của một cô gái chờ chồng, đợi chồng đi xa:

“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyển dò”.

Buồn và lo vì tuổi xuân sẽ trôi qua, như kẻ đứng trên bến vắng chờ đò “càng trưa chuyến đò” Những câu hát tiếp theo là những câu thơ lục bát phá thể, biến thể, thể hiện tâm trạng đầy bi kịch của người con gái đã có chồng (như gông đeo cổ) nên phải “lụy dò” lúc muốn “qua sông”, muốn dứt bỏ mối duyên tình cũ:

Chẳng nên gia thất thì về Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”

Chẳng cần chi úp mở, cô gái thổ lộ mối tình “gió giăng ” của mình, với niềm tin sẽ cùng với tình nhân “gió giăng” sống đến đầu bạc răng long, trọn vẹn “đạo hằng” thuỷ chung:

“Gió giăng thì mặc gió giăng Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”

Tâm trạng “nổi loạn” ấy của Xuý Vân cho đến nay vẫn còn làm cho nhiều khán giả ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Phải chăng đó là sự “bứt phá” đạo tam tòng tứ đức lễ giáo phong kiến của một người con gái đang “nổi loạn ”?

Sau tiếng hỏi của vai diễn và tiếng đế hô ứng của khán giả, Xúy Vân mới xưng danh:

“Chẳng giấu gì: tôi tên gọi Xuý Vân Lấy Kim Nhan nhà khó gian truân Chồng học vắng thầy ngày mong mỏi Tôi ngồi từ tối Đợi khách tha nhang Gái phải nằm hàng Nghề dại dột… nhưng tài cao vô giá Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ"

Ai cũng gọi là cô ả Xuý Vân Phụ Kim Nhan say đắm Trần Phương Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại… ”

Rồi Xuý Vân cất điệu “hát con gà rừng” thể hiện một duyên phận trớ trêu, khác nào “Con gà rừng ăn lẫn với công”, vô duyên lấy phải anh chồng vai u thịt bắp, sống cuộc đời lam lũ: “Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm”. Xuý Vân tự cho mình là con quan, cao môn lệnh tộc, còn Kim Nhan là con nhà nghèo hèn, cục mịch tầm thường.

Rồi nàng lại chuyển sang “hát xe chỉ” diễn tả tâm trạng mong nhớ “đợi chờ tình nhân”, ước ao khát khao muốn được cùng Trần Phương sống trong tình yêu hạnh phúc “Áo giải làm chiếu, chăn quây làm mùng”. Hát rồi nói, bộc lộ một tâm trạng cô đơn của cô gái đa tình:

“Tôi thương nhân ngãi Tôi nhớ nhân tình Đêm năm canh trằn trọc hoà năm Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu”?

Đoạn “hát ngược ” đã thể hiện tâm trạng trăm mối tơ vò của một cô gái giả dại mà ngọn lửa tình ngùn ngụt, mà nỗi khao khát dục tình cháy bỏng khôn nguôi. Giả dại, giả điên hay hóa cuồng? Ngược đời trong tự nhiên cũng là nghịch lí trong tâm trạng người con gái đa tình mà thất tình: “Muỗi ấp cánh dơi… Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây…”

Rồi Xuý Vân như chợt bừng tỉnh, giải thích rõ cái dại, cái rồ, cái điên của mình:

“Rồi này ai bán thì mua Dại này ai thấy không mơ mẩn tình Lúc thì giả cách làm thinh Lúc thì giả dại ra hình làm điên Lúc thì tưởng đến nhân duyên Cho nên đến nỗi phát điên, phát rồ”.

Trần Phương đã qua mụ quán xúi Xuý Vân giả dại để thoả tình giăng gió, gió giăng. Phải xem chèo và nghe chèo mới cảm thấy cái hay màn chèo “Xuý Vân giả dại”. Trích đoạn này đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ của một cô gái đa tình mà thất tình, muốn dứt bỏ, đập phá mối quan hệ vợ chồng với Kim Nhan để chạy theo mối tình mới với Trần Phương – một Sở khanh mà nàng đâu biết.

Nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc lứa đôi, nỗi buồn cô đơn của người vợ trẻ trong cảnh ngộ “thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” của Xuý Vân là điều có thể cảm thông và thương cảm. Xuý Vân giả dại là khởi đầu của một sự trượt dốc để không bao lâu thân tàn ma dại trở thành hành khất, rồi bị điên, rồi tự tử. Cái kết cục bi thảm đó đã làm cho cảm hứng nhân đạo thấm sâu vai chèo, màn chèo. Cái bánh vẽ tình yêu mà Trần Phương trao cho Xuý Vân, nàng tưởng là ngọt ngào nhưng vô cùng cay đắng.

Màn chèo Xuý Vân giả dại đã thể hiện sâu sắc quan niệm của nhân dân về tình yêu lứa đôi, về sự đau khô dại khờ trong tình yêu lứa đôi. Câu hỏi được đặt ra: “Thế nào là tình yêu hạnh phúc gia đình chân chính?” cứ xoáy sâu mãi vào những người yêu thích chèo Kim Nham.

Mẫu 2

Lời giải chi tiết:

Đoạn trích Xúy Vân giả dại là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật chèo Việt Nam. Xuý Vân giả dại là hiện thân của số phận bi kịch người phụ nữ bị giằng xé giữa khát vọng tình yêu và hạnh phúc trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt trong chế độ phong kiến. Chính sự bất bình đẳng trong xã hội là một trong những nguyên nhân gây chính gây nên những tấn thảm kịch của người phụ nữ.

Trong truyện Xúy Vân giả dại, nhân vật chính Xúy Vân được tác giả miêu tả và xuất hiện trước mắt khán giả với bộ dạng nửa tỉnh nửa mê, ngây ngây dại dại. Xúy Vân nói chuyện với bà Nguyệt, lại mượn những hình ảnh về con đò nhỏ trôi nổi để nói về số phận và tình duyên của mình. Chỉ cần như vậy, người đọc đã thấy được một Xúy Vân tuy ngây dại nhưng thực ra lại có nét tài hoa, có cả những tư tưởng về sự hạnh phúc.

Những câu hát sầu thảm của Xúy Vân càng khiến cho người đọc cảm thông về một số phận, một cuộc đời bi thảm của người phụ nữ. Bởi trong xã hội đó, họ không được phép theo đuổi tình yêu của mình mà phải chịu cảnh sắp đặt của bậc cha mẹ. Chính vì những từ tưởng phong kiến như vậy, XÚy Vân mới luôn bất mãn và đau khổ. Có thể nói, người đẩy nàng vào hoàn cảnh này chính là cha mẹ, những người luôn tự cho rằng muốn nàng sống hạnh phúc.

Trong truyện, Xúy Vân được miêu tả là một người con gái xinh đẹp và cũng tài hoa chẳng kém những bậc nam nhi được ăn học. Nàng luôn khát khao về một cuộc sống hạnh phúc, vợ may vá chồng làm ruộng. Tuy nhiên, nàng phải gả cho một thư sinh, việc nhà việc cửa đã khiến cho người con gái ấy chịu áp lực lớn mà lại chẳng thể chia sẻ cùng chồng. Vậy nên, khi gặp phải kẻ bội bạc kia, nàng đã tin hắn hết mực.

Ta chẳng thể trách được Xúy Vân. Nàng là một người dám làm, dám hy sinh. Tuy nhiên, chỉ là lòng tin và tình yêu của nàng đặt không đúng chỗ. Bởi tước đó, vì gia đình nhỏ này, Xúy Vân đã cố gắng rất nhiều trước khi muốn bỏ cuộc. Đáng lẽ ra, Xúy Vân phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, nhưng số trời luôn trêu ngươi nhau vậy.


Cùng chủ đề:

Phân tích nhân vật Giăng Van – giăng - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật Héc - To - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật Phăng – tin - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật Thanh trong Dưới bóng hoàng lan - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật Xúy Vân - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật tri huyện - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích nhân vật viên quản ngục - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích truyện Thần Sét - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích truyện Thần trụ trời - Văn mẫu 10 KNTT
Phân tích văn bản Chữ bầu lên nhà thơ - Văn mẫu 10 KNTT