Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
I. Mở bài - Đôi nét về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo. - Giới thiệu vấn đề nghị luận:
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận:
+ Trong tác phẩm, quá trình bị tha hóa của Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, chất phác thành con người tha hóa cả tâm hồn lẫn ngoại hình, mặc dù vậy anh vẫn còn nhân tính được ngòi bút Nam Cao tập trung khắc họa một cách chân thực và rõ nét.
II. Thân bài
1. Sơ lược về nhân vật Chí Phèo - một nông dân hiền lành, chất phác
- Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, một tấc đất cắm dùi cũng không có.
- Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống làm ăn chân chính.
+ Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, cày thuê cuốc mướn Chí Phèo là một người lương thiện.
+ Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục. Là người có ý thức về nhân phẩm.
2. Quá trình bị tha hóa về cả tâm hồn lẫn ngoại hình
- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
+ Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
+ Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
- Hậu quả của những ngày ở tù:
+ Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm”.
→ Sự tha hóa về nhân hình.
+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến.
→ Sự tha hóa về nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến.
→ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực.
3. Tuy vậy, Chí Phèo vẫn còn nhân tính
- Nhân tính: Tính người.
- Chí Phèo vẫn còn tình người, tính người sau cuộc gặp gỡ và mấy ngày chung sống ngắn ngủi với Thị Nở.
- Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, nhân tính của Chí Phèo quay trở lại.
+ Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.
+ Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”.
+ Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất.
+ Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
+ Hắn đủ tỉnh để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc.
→ Cuộc gặp với Thị Nở đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên.
- Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng.
- Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hy vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.
→ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, đã thực sự “tỉnh” để yêu, để hi vọng, để mong ước.
- Ngay cả khi bị từ chối, chính bởi Chí Phèo còn nhân tính, còn nhân tính để đau đớn, tuyệt vọng cho số phận mình:
+ Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô Thị Nở, nói vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn: Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”.
→ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng.
+ Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”.
+ Nhưng “hắn không rẽ vào nhà Thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến: Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình.
+ Câu hỏi “Ai cho tao lương thiện”: thể hiện sự ý thức trỗi dậy mạnh mẽ nhất của nhân tính nhưng cũng là đau đớn nhất, Chí Phèo nhận ra rằng mình mong muốn trở về thành người lương thiện nhưng không thể nào được nữa.
III. Kết bài
- Khái quát những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện quá trình bị tha hóa nhưng nhân tính vẫn còn của Chí Phèo: nghệ thuật khắc họa tâm lí, bút pháp hiện thực…
Bài tham khảo Mẫu 1
“- Ai cho tao lương thiện? Làm sao để xóa hết được những mảnh chai trên khuôn mặt này…?”Trước khi đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình, Chí Phèo - nhân vật trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, đã hét lên như thế. Câu chuyện của một con người đi đòi lương thiện, đòi xóa những mảnh chai trên khuôn mặt chính mình trong thiên truyện đã khiến bao thế hệ bạn đọc thổn thức trong rất nhiều thập kỉ qua. Nông nỗi nào đẩy con người ấy vào tình cảnh trớ trêu ấy? Trong truyện ngắn được coi là kiệt tác của Nam Cao – Chí Phèo, người đọc đã tìm thấy câu trả lời. Đó chính là quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo, từ một anh nông dân hiền lành chất phác thành con người tha hóa cả về tâm hồn lẫn ngoại hình, tuy vậy Chí vẫn còn nhân tính.
Chí Phèo ra đời vào năm 1941, khi mà những tác phẩm về đề tài người nông dân đã trở nên quá cũ. Thậm chí để tăng sự hấp dẫn, tò mò đối với người đọc, một nhà xuất bản còn thay đổi nó với cái tên hợp thời hơn Đôi lứa xứng đôi. Nhưng không, bằng tài năng và sự sáng tạo độc đáo của mình, Nam Cao đã viết nên số phận của người nông dân với những nét riêng và khác biệt. Ngay từ tên nhan đề sau này ông đặt lại là Chí Phèo cũng đã gợi cho người đọc về một hiện tượng của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – 1945. Từ Chí biến thành Chí Phèo là cả một câu chuyện về cuộc đời của một con người trượt dài trên cái dốc của tha hóa. Đến khi muốn dừng lại, muốn quay đầu mà không thể được nữa.
Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu con người ta sinh ra trong hoàn cảnh thiệt thòi, thiếu may mắn để rồi sa ngã, biến chất. Đó là do hoàn cảnh sinh ra không có cha mẹ, không có người dạy bảo, nuôi dưỡng tử tế. Rất nhiều định kiến như thế đã hình thành trong tư duy của mỗi chúng ta từ lâu. Nhưng với trường hợp của Chí trong tác phẩm này thì khác. Bất hạnh ngay từ lúc sinh ra. Trong bộ dạng trần truồng, xám xịt ở cái lò gạch cũ, Chí cứ từng ngày lớn lên bằng cách truyền tay nhau của người làng. Lúc thì anh bị đem cho, khi thì bị đem bán rồi cũng lớn lên trở thành một thanh niên hai mươi tuổi vạm vỡ, khỏe khoắn và làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Nhìn nhận ở năng lực vươn lên của con người trong hoàn cảnh như thế, Chí là chàng trai đầy nghị lực. Không gia đình, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi, thân phận thì ở đợ, làm nô bộc cho nhà giàu. Vậy mà tâm tính lại tốt. Biết ước mơ về một cuộc sống bình dị, giản đơn mà hạnh phúc: chồng cày thuê, cuốc mướn, vợ dệt vải. Biết nhục nhã, xấu hổ khi bị bà ba – vợ Bá Kiến, dụ dỗ, sàm sỡ. Trước khi bước vào tác phẩm với bộ dạng say khướt, vừa đi vừa chửi, Chí đã là một anh cố nông hiền lành, chất phác, lương thiện như thế.
Nhưng thói đời cơ cực lại thường hay giơ vuốt, con người tốt tính đến đâu nếu không tự mình gian trá, lọc lừa mà sống trong hoàn cảnh ấy thì cũng sẽ bị nó xô cuốn đi mà vùi dập cho đến khi còn chẳng nhận ra là người. Đánh giá một cách khách quan, xã hội thực dân nửa phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – 1945 là thói đời như thế. Người đọc vẫn bàn tán rằng, cơn ghen vu vơ của Bá Kiến sẽ rất đỗi bình thường nếu ông ta cũng chỉ là một người nông dân của làng Vũ Đại. Nhưng nó lại trở thành cơn thịnh nộ cùng cực của một kẻ háo sắc đã làm đến chức vụ cao nhất ở nơi đây. Vậy là quyền sinh, quyền sát trong tay, muốn cho ai sống thì sống, muốn cho ai chết thì chết, hoặc tàn nhẫn hơn thì có kẻ còn sống không bằng chết. Cơn ghen ấy trở thành hiểm họa, bàn đạp để đẩy Chí lao vào guồng quay của sự tha hóa. Mà trước hết là tha hóa về nhân hình.
Nhà tù thực dân đã nhanh chóng biến anh Chí ngày nào trở thành một tên côn đồ, một tên lưu manh ngay từ dáng vẻ bên ngoài. Chính nhà văn Nam Cao phải hai lần thốt lên trông gớm chết khi miêu tả bộ dạng của anh ta sau bảy, tám năm ở tù về. Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gườm gườm, cái mặt rất cơng cơng, mặc cái áo tây vàng, cái quần nái đen, ngực và cánh tay trạm trổ đầy những ông tướng cầm chùy. Người ta không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, lương thiện ngày nào nữa. Nhưng đã là gì, dáng vẻ ấy còn chưa khiến họ cảm thấy bắt đầu sợ Chí, kinh hãi Chí và hoàn toàn xa lánh Chí cho đến khi hắn dần dần có những hành động mất hết nhân tính.
Mới ở tù về mà hắn đã ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến chiều. Và rồi từ đấy, ngày nào người ta cũng thấy hắn say. Chí làm náo loạn cả làng Vũ Đại với những trận say điên cuồng, lảo đảo xách chai đến nhà Bá Kiến mà chửi bới, mà ăn vạ. Hành động uống rượu say đã đẩy hắn đi xa hơn người ta tưởng. Ban đầu Chí chỉ làm trong vô thức, say để chửi Bá Kiến nhưng dần dần say để vòi vĩnh, để đòi lợi ích cho bản thân. Muốn vậy Chí tình nguyện biến mình trở thành tay sai cho Bá Kiến. Bao nhiêu gia đình tan hoang bởi Chí, máu cũng đã đổ, Chí đã trở nên ngang ngược, hung hãn trong những cơn say triền miên. Chẳng biết tự lúc nào Chí đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Từ việc bị đẩy nhưng rồi Chí tự trượt dài trên cái dốc của sự tha hóa. Chí mất hết tính người và người làng Vũ Đại cũng chẳng ai coi Chí là người. Chí trở thành Chí Phèo – một phần thừa thãi, bỏ đi của xã hội. Vậy nên những gì Chí Phèo làm ngay từ khi mở đầu tác phẩm đó là chửi nhưng cũng chẳng ai thèm đáp trả. Tiếng hắn chửi cũng chỉ như tiếng những con vật bình thường của cuộc sống, chẳng ai buồn nghe, buồn đáp lại.
Đó cũng là lúc Chí đã hoàn toàn rơi xuống vực sâu của sự tha hóa. Nỗi cô độc tuyệt cùng ấy Chí không thể giải tỏa được cùng ai, Chí đã bị đẩy ra khỏi thế giới loài người, ra ngoài rìa của xã hội. Sự tha hóa của Chí là một sự phản ánh chân thực, nghiệt ngã nhất về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ những kẻ tàn nhẫn, độc ác đã cố tình đẩy Chí và lợi dụng Chí để biến anh thành con quỷ của làng Vũ Đại. Chân dung ấy của anh chính là hiện thân cho nỗi thống khổ lớn nhất của người nông dân trong xã hội lúc bây giờ.
Nhưng dưới ngòi bút nhân đạo của Nam Cao, Chí Phèo không hề đơn độc. Trong cơn cùng cực của cuộc đời, Chí được nhà văn khơi dậy phần người ít ỏi còn sót lại. Tiếng chửi trong hình hài của con quỷ dữ ấy ẩn chứa những thèm khát vô cùng được trở về thế giới loài người. Đó là tiếng gào thét của một con người đã chót bán linh hồn cho quỷ dữ. Nam Cao như đồng cảm, thấu hiểu điều ấy dù giọng văn có phần sắc lạnh. Đây chính là căn nguyên để Chí hoàn toàn thức tỉnh, trỗi dậy khát vọng hoàn lương sau cái đêm định mệnh gặp Thị Nở. Thực chất bản tính lương thiện của Chí không hề mất đi, mà nó chỉ tạm thời bị vùi sâu, âm ỉ. Nếu không còn nhân tính, Chí chẳng thể nhận ra một cuộc đời đắng cay với quá khứ tưởng như bình yên mà đầy nhục nhã, với hiện tại già nua, cô độc và với tương lai mờ mịt, đáng sợ bởi sự cô độc. Chí cũng chẳng thể nghe được những âm thanh, cảm nhận được những hương vị của cuộc sống nếu vẫn cứ triền miên trong những cơn say. Chí càng không thể cảm nhận được vị ngon của tình người qua bát cháo hành…
Bao cảm xúc, suy tư của một con người lại trỗi dậy, Chí ao ước, khao khát được quay về xã hội bằng phẳng của loài người. Rồi ngay cả khi niềm hi vọng ngắn ngủi ấy nhanh chóng bị dập tắt bởi định kiến, Chí vẫn mơ tưởng. Hành động đòi lương thiện, đòi xóa những mảnh chai trên mặt trước Bá Kiến là một việc làm đầy dũng cảm. Không phải là con người sao Chí dám dõng dạc mà cất tiếng như thế. Thực chất, đó là nỗi đau của đời Chí. Bi kịch không được làm người đẩy Chí đến một hành vi quả quyết, giết kẻ thù và tự kết liễu đời mình. Đó là cách duy nhất Chí có thể làm lúc này để minh chứng cho khát vọng làm người của anh là có thật. Đây không phải là hành vi của một con quỷ, mà đó là sự bế tắc, đau đớn không có sự lựa chọn nào khác của một con người. Phần nhân tính của Chí đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí đã hồi sinh.
Quá trình tha hóa của Chí Phèo là bước miêu tả quá chân thực về số phận người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – 1945. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, Chí biến thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Đó là tiếng chuông tiếp tục cảnh tỉnh con người về một xã hội tàn nhẫn, bất công và vô nhân đạo. Nhưng Nam Cao đã để ngòi bút chan chứa tình yêu thương của mình khai thác, khám phá và khẳng định bản chất lương thiện trong con người anh. Dù Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời, nhưng chắc chắn người ta đã cảm thông, đã tin về phần nhân tính vẫn còn trong con người anh.
Bài tham khảo Mẫu 2
Nam Cao một nhà văn lớn của dân tộc đã để lại bao tác phẩm hay, mang cả giá trị nội dung và giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông là người có tấm lòng đôn hậu chan chứa tình yêu thương và gắn bó với quê hương. Vì vậy, ta có thể thấy cảm hứng chủ đạo của ông qua nhiều tác phẩm đó là hình tượng người nông dân. Một trong những tác phẩm để lại ấn tượng nhất trong lòng người đọc đó là "Chí Phèo", tác phẩm đã khái quát lại một thời kỳ đầy biến động của đất nước ở những vùng nông thôn nghèo, nơi có những con người thấp cổ bé họng đã bị đày đến đường cùng. Ta có thể thấy rõ điều đó qua quá trình tha hóa của nhân vật chính Chí Phèo của tác phẩm cùng tên.
Tác phẩm "Chí Phèo" được viết vào năm 1936, thuộc đề tài nông dân ở thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đã được đổi tên rất nhiều lần để phù hợp với nội dung. Đến năm 1946, khi truyện ngắn này được in trong "Luống cày" với tên gọi "Chí Phèo" đã thể hiện khái quát nhất và đầy đủ nhất tư tưởng của tác phẩm. Chí Phèo là nhân vật chính của câu chuyện. Hắn có một số phận bất hạnh bị bỏ rơi từ khi còn bé tại một lò gạch cũ, rồi được người dân trong làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi dưỡng. Đến khi trưởng thành, hắn chăm chỉ lao động làm ăn nhưng bị buộc tội oan và đày đi ở tù. Sau khi ra tù, những năm tháng ở nhà tù thực dân phong kiến đã biến Chí từ một con người lương thiện thành một tên hách dịch, rồi làm tay sai cho Bá Kiến. Cuộc sống của Chí bừng sáng hơn khi gặp được Thị Nở, và được thức tỉnh làm người, nhưng rồi bị cự tuyệt bởi Thị Nở khi Thị Nở nghe lời bà cô của mình. Chí tức giận, rồi tìm Bá Kiến trả thù, giết Bá Kiến rồi tự sát.
Nam Cao đã diễn tả quá trình tha hóa của Chí Phèo đầy chua xót bởi từ một con người thiện lương lại trở thành một con quỷ dữ của cả làng Vũ Đại. Sự xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện đã rất độc đáo - tiếng chửi của Chí Phèo. Hắn say rượu, hắn chửi tất cả mọi người "chửi đời", "chửi trời", "chửi cả làng Vũ Đại", "chửi cả đứa nào đẻ ra hắn". Khi say rượu, có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng người đó không được tỉnh táo, nên không ai chấp với hắn, người ta kệ hắn, hay người ta cũng quen với việc đó rồi, mọi người cứ cho rằng hắn không chửi mình. Nhưng vì sao Chí lại chửi? Tất cả đều có nguyên do của nó, càng say rượu thì Chí càng nhận ra số phận của mình, làm người mà không có một đến ai công nhận. Hắn đau khổ tức giận khi nhận ra được hoàn cảnh của mình, không ai trò chuyện với hắn, đáp lại hắn chỉ là những tiếng sủa của những con chó. Chí là một con người cô độc, sống như không là một con người trên chính mảnh đất mình lớn lên.
Mở màn bằng tiếng chửi của Chí, chắc cũng có người cho rằng hắn từ bé đã là người xấu, được dạy dỗ không đàng hoàng. Nhưng không, Nam Cao đã tiết lộ rằng trước khi đi ở tù hắn là một con người tốt. Hắn có một tuổi thơ đặc biệt, không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, bị bỏ rơi trong cái lò gạch hoang, rồi được người dân trong làng Vũ Đại nuôi dưỡng. Khi lớn lên, Chí làm canh điền cho Bá Kiến, Chí bỏ sức lao động của mình ra để nuôi bản thân, tính tình hắn tốt lắm "hiền như đất". Hắn còn rất giàu lòng tự trọng, hắn ghê tởm hành động của mình, cảm thấy nhục nhã khi bị bà ba nhà Bá Kiến bắt làm những việc "không chính đáng". Hắn cũng là một con người có ước mơ, một ước mơ bình dị như bao người khác "có một gia đình nhỏ", "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", "chung lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Khi còn là chàng trai thanh niên tuổi 20, Chí vẫn được coi là một con người, có tấm lòng lương thiện, có hoài bão ước mơ, nhưng chế độ thực dân phong kiến thối nát đã đẩy một con người tốt ấy đến bờ vực - bị cự tuyệt làm người.
Sau bảy, tám năm ra tù, con người hiền lành như đất ấy đâu còn, Chí tha hóa và trở thành con quỷ dữ trên hai phương diện cả ngoại hình lẫn tính cách. Về ngoại hình, hắn mang dáng vẻ của một tên lưu manh "cái đầu trọc lốc", "răng cạo trắng hớn", cái mặt thì lúc nào cũng "câng câng", hai con mắt "gườm gườm" trông gớm chết. Trang phục thì bắt chước bọn thực dân, mặc quần nái đen, áo tây vàng, ngực thì phanh ra, trên đó còn chạm trổ những hình thù quái dị... Không chỉ ngoại hình, nhân tính của hắn cũng biến chất. Hắn hung hăng liều lĩnh, hành động lời nói như của một tên cố cùng liều thân. Hắn chỉ suốt ngày làm bạn với rượu chè, say khướt, rồi đến nhà Bá Kiến mà chửi. Thay vì đi làm lao động, hắn lại chìm đắm trong những cơn say, phá hoại gia đình lương thiện khác. Hắn chịu làm tay sai cho Bá Kiến, bị hắn lợi dụng để đổi lấy những cơn say hết ngày.
Chí đã trở thành một tên quỷ dữ của làng Vũ Đại lúc nào không hay, tất cả mọi người trong làng sợ hắn, tránh xa hắn. Một cuộc đời thật vô nghĩa khi được sinh ra làm người mà lại không được công nhận làm người. Hắn cũng nhận thức được lỗi lầm của bản thân, tìm ra được nguyên nhân đã gây ra bi kịch cho cuộc đời mình. Bá Kiến và nhà tù thực dân phong kiến đã đẩy Chí đến bước đường cùng. Hắn đã trả thù Bá Kiến và tự sát, hắn tìm đến cái chết cũng như là để giải thoát cho chính mình. Từ nhân vật Chí, Nam Cao đã dựng lên một hình tượng mang ý nghĩa điển hình, tiêu biểu cho một bộ phận cố nông bị cướp đi cả về nhân hình lẫn nhân tính.
Nam Cao đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo bằng nghệ thuật khắc họa nhân vật, tính cách thật độc đáo, mỗi nhân vật đều mang một tính cách riêng và đều được bộc lộ rõ nét, tạo ấn tượng mạnh với người đọc. Không chỉ vậy, lối kể chuyện của Nam Cao còn gây bất ngờ khi thì hiện tại, quá khứ, rồi tương lai. Giọng văn ông tỉnh táo sắc lạnh, chua chát nhưng có lúc đằm thắm, yêu thương kết hợp với ngôn ngữ sống động tinh tế vô cùng gần gũi, bình dị với lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Chí Phèo - một tác phẩm văn học hiện thực sống mãi với thời gian. Tác phẩm đã tố cáo một xã hội thực dân phong kiến tàn bạo cướp đi của người nông dân cả nhân hình lẫn nhân tính. Đồng thời, qua đó, Nam Cao còn muốn gửi tới người đọc, hãy trân trọng, quan tâm đến những người xung quanh mình, phát hiện ra những bản chất tốt đẹp trong con người, để rồi tất cả mọi người sẽ có một cuộc đời ý nghĩa và hạnh phúc của một con người.
Bài tham khảo Mẫu 3
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà không được làm người. Câu chuyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, dọa nạt của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó, nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của tình yêu thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút tình yêu thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỷ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng "mơ hồ buồn". Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về. Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí.
Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải" bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của một con người, Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.
Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cam vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần gặp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.
Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ "hết sức ngạc nhiên" đến xúc động "thấy mắt mình như ươn ướt" bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà". Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của tình yêu, thị Nở bỗng trở thành một người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết "ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe hai tiếng "vợ chồng". Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.
"Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được". Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn "thế này" đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị... “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở - một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như một con người đúng nghĩa, khao khát được trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện cho nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiên lương, của lòng lương thiện.
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là một thằng lưu manh, hơn thế nữa là một con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng "rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng".
Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng "ôm mặt khóc rưng rức". Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này không như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình.
Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: "Tao muốn làm người lương thiện! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!" Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn lối thoát.
Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận được cuộc sống của một con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc sống làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.
Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.