Phân tích tác phẩm "Lều chõng" lớp 11
1. Mở bài: - Giới thiệu tác giả tác phẩm - Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả tác phẩm
- Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ông được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình, Lều chõng.
2.Thân bài
a.Nội dung tiểu thuyết Lều Chõng
- Lều Chõng kể về hành trình thi cử gian nan của người học trò tên là Vân Hạc. Anh này vốn là con người tài hoa hay chữ, lại chăm chỉ đèn sách, tài học của chàng khiến ai cũng phải tấm tắc khen ngợi.
- Vân Hạc có một người vợ rất xinh tên là Ngọc. Cô Ngọc này luôn nuôi một ước mơ là trở thành bà Thám bà Bảng nên dốc hết công sức, chăm lo cho chồng ăn học đi thi.
b. Hành trình thi cử của Vân Hạc
- Ngày xưa, thi cử là con đường duy nhất để con người thay đổi số mệnh. Để chọn người tài cho đất nước, nhà nước phong kiến tổ chức 3 kỳ thi Hương, Hội, Đình
- Vân Hạc được vợ ủng hộ, chăm lo chính vì vậy, Vân Hạc cũng gắng sức học hành để ăn thua với đời, cho bõ công vợ chàng vò võ hàng đêm.
- Tại trường thi, nơi coi là tôn nghiêm nhất cũng chẳng thiếu gì những âm mưu, thủ đoạn, quy định ngang trái và những thói lừa dối trắng trợn.
→ Đến cuối cùng, cả hai đều nhận ra, chốn quan trường là nơi rất mực nguy hiểm, thà làm “cây thông đứng giữa trời mà reo” còn hơn quăng mình vào chốn nguy nan ấy.
c. Nét đặc sắc trong tác phẩm
- Ngô Tất Tố có cái tài xuất sắc trong việc tả thực những cảnh nghèo khổ, lầm than hay bất công trong xã hội ngày xưa.
- Trong Lều Chõng, tác giả chủ yếu dùng thủ pháp tả thực để tái hiện lại những khó khăn, gian truân mà sĩ tử trải qua trước khi đem về công trạng.
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị nhân văn mà tác phẩm đem lại, Lều chõng không chỉ là tác phẩm văn học mà còn là tư liệu lịch sử quý giá
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Ngô Tất Tố, một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có sự ảnh hưởng lớn trong lịch sử văn học và văn hóa Việt Nam trước năm 1954. Ông được xem là một trong những tác giả nổi bật của trào lưu hiện thực phê phán tại Việt Nam trước năm 1945, với các tác phẩm tiêu biểu như “Tắt Đèn,” “Việc Làng,” “Tập Án Cái Đình,” và “Lều Chõng."
“Lều Chõng” là một tiểu thuyết phóng sự của Ngô Tất Tố, được công bố lần đầu vào ngày 10 tháng 3 năm 1939 tại Hà Nội, nó là một tác phẩm mang tính biểu cảm độc đáo của ông.
“Lều Chõng” là câu chuyện về cuộc hành trình thi cử đầy khó khăn của một học trò tài năng tên là Vân Hạc. Anh là một người có tài về chữ, luôn đam mê việc học, và tài năng của anh khiến cho mọi người không ngừng khen ngợi.
Vân Hạc có một người vợ xinh đẹp tên là Ngọc. Cô luôn nuôi ước mơ trở thành người có địa vị và uy tín trong xã hội, và vì điều này, cô đã dốc hết công sức, chăm sóc chồng và đảm bảo anh có điều kiện để học tập và thi cử. Vân Hạc, trong lòng anh, luôn cố gắng hết mình để thành công trong cuộc sống, để đáp lại tình yêu và sự hy sinh của vợ mình.
Cuối cùng, cả hai nhận ra rằng cuộc thi cử và quan trường không phải lúc nào cũng là con đường an toàn. Họ nhận thấy rằng đôi khi, việc “đứng giữa trời như cây thông” và tự khắc khoải là tốt hơn so với việc rơi vào một cuộc sống nguy hiểm và không chắc chắn.
Trong tiểu thuyết “Lều Chõng” tác giả sử dụng thủ pháp tả thực tái hiện những khó khăn và gian truân mà sĩ tử phải trải qua trước khi đạt được thành tựu trong thi cử. Cuốn tiểu thuyết thể hiện một cách tinh tế những khía cạnh khó khăn và gian truân của cuộc thi cử và cuộc sống thời kì đó.
Nhà văn Ngô Tất Tố đã tài tình tả thực những cảnh nghèo khó, bất công và gian truân trong xã hội thời xưa. “Lều Chõng” là bức tranh sống động về cuộc thi cử ngày xưa, nơi sĩ tử phải đối mặt với những thách thức vô cùng khắc nghiệt và phức tạp.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Đây là cuốn tiểu thuyết- phóng sự miêu tả tấn bi kịch của những nhà Nho có tài trong xã hội phong kiến và được coi là lời chỉ trích sâu sắc những tồn tại của nền văn hóa cũ. Tác phẩm đã tái hiện một cách sinh động, sắc nét, giúp các thế hệ hậu sinh lội ngược dòng thời gian để khám phá về thời kỳ lều chõng, hiểu được “bi kịch” của giới nhà Nho- lớp trí thức thời xưa.
Xây dựng " Lều chõng", Ngô Tất Tố muốn cho người đọc thấy được cách học cổ hủ, giáo điều và lối thi cử lỗi thời dưới chế độ phong kiến suy tàn. Nhà nước phong kiến muốn kén chọn nhân tài, nhưng lại loại mất những người có tài. Người có tương lai và thông minh như Vân Hạc có một số nhận thức về học tập, về thi cử không giống các bạn của anh, nhưng rồi “công danh ai dứt lối nào cho qua” anh cũng vẫn lều chõng đi thi. Còn người con gái lấy chồng thì không phải vi tình yêu, mà vì muốn được làm bà nghè, bà thám. Lều chõng đã miêu tả một bi kịch của lớp người trí thức và phụ nữ thời phong kiến, do sự vỡ mộng về “công không thành danh chẳng toại”, anh đồ vẫn hoàn toàn là anh đồ và chị đồ vẫn hoàn toàn là chị đồ. Qua tác phẩm, Ngô Tất Tố đã giáng những đòn rất mạnh vào chế độ phong kiến hủ bại và những kẻ muốn lấy đạo Nho làm nền tảng “ tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tác phẩm mang giá trị tư liệu lịch sử sâu sắc về chế độ khoa cử và giáo dục ở triều Nguyễn khi xưa
"Lều chõng" cho ta thấy Hà Nội hiện lên với nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ những cô hàng bán giấy bút, cho đến ông chủ quán trọ cũng đều hết sức tài hoa, lịch thiệp. Ngô Tất Tố đã ghi nhận một phần những ảnh hưởng mà Hà Nội để lại trong cuộc đời những kẻ sĩ tương tự như ông. Bấy giờ mức độ xâm nhập của văn minh Tây Âu vào xã hội Việt Nam còn là hạn chế. Qua tác phẩm "Lều chõng" hiện lên chân dung tinh thần Ngô Tất Tố như một nhà nho, để rồi từ đó ta phải hình dung ra thêm Ngô Tất Tố... nhà văn, nhà báo. Tuy nhiên, đối với quá trình tư tưởng của ông trong cả hai chặng đường này, Hà Nội vẫn có một vai trò không gì thay thế được.
Bài tham khảo Mẫu 1
Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ông được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình, Lều chõng.
Lều Chõng kể về hành trình thi cử gian nan của người học trò tên là Vân Hạc. Anh này vốn là con người tài hoa hay chữ, lại chăm chỉ đèn sách, tài học của chàng khiến ai cũng phải tấm tắc khen ngợi.Vân Hạc có một người vợ rất xinh tên là Ngọc. Cô Ngọc này luôn nuôi một ước mơ là trở thành bà Thám bà Bảng nên dốc hết công sức, chăm lo cho chồng ăn học đi thi. Chính vì vậy, Vân Hạc cũng gắng sức học hành để ăn thua với đời, cho bõ công vợ chàng vò võ hàng đêm.Đến cuối cùng, cả hai đều nhận ra, chốn quan trường là nơi rất mực nguy hiểm, thà làm “cây thông đứng giữa trời mà reo” còn hơn quăng mình vào chốn nguy nan ấy.
Phải thừa nhận rằng Ngô Tất Tố có cái tài xuất sắc trong việc tả thực những cảnh nghèo khổ, lầm than hay bất công trong xã hội ngày xưa. Đọc văn ông, ta mới thấy việc thi cử ngày nay vẫn vào dạng sung sướng chán.
Ngày xưa, thi cử là con đường duy nhất để con người thay đổi số mệnh. Để chọn người tài cho đất nước, nhà nước phong kiến tổ chức 3 kỳ thi Hương, Hội, Đình. Phải qua thi Hương – là kỳ thi cấp tỉnh rồi mới được bước đến kỳ sau. Sau khi đỗ đủ 4 trường thi Hương thì sĩ tử sẽ lên kinh đô thi Hội, cũng gồm 4 kỳ nhỏ hơn. Nếu trúng cả 4, ta sẽ thành ông tiến sĩ được vào thi Đình – kỳ thi được tổ chức ngay tại sân vua. Để tham gia những kì thi này, sĩ tử phải vượt rừng băng núi, đi ròng rã mấy tháng trời mới tới được nơi thi.Ấy thế nhưng không phải ai muốn thi cũng được. Sĩ tử phải đủ 10 năm đèn sách mới được dự khảo hạch đủ điều kiện thi Hương. Chữ Hán khó học, luận ra nhiều nghĩa. Mỗi năm, quy chế góp vào một danh sách những từ húy kỵ, nếu sĩ tử viết động vào thì đi tù như chơi. Không những vạ mình chàng sĩ tử, cả nhà, thậm chí cả tổng hương xã cũng bị vạ lây.
Thời nay, bệnh thành tích làm học sinh khổ sở thì xưa kia những kỳ vọng đặt lên vai sĩ tử cũng không phải ít. Họ hàng chung tiền biếu người đi thi, bố mẹ cưới vợ cho con cốt là để có người chăm lo đèn sách. Có những người thi hỏng, học tới bạc tóc vấn khăn gói, lều chõng đi thi cho kỳ đỗ mới thôi.
Lều Chõng không chỉ là chuyện văn chương, chữ nghĩa. Lều chõng còn gắn bó mật thiết đến vận mệnh đại sự của quốc gia, đến sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước. Lều Chõng là tiểu thuyết phóng sự chất tiểu thuyết của Lều Chõng thể hiện từ cốt truyện với hệ thống các nhân vật có tâm lý, tính cách cụ thể, được xây dựng thành những hình tượng và các chân dung điển hình. Chất phóng sự trong Lều Chõng biểu hiện bằng nghệ thuật xử lý tinh tế, có tính thời sự cao, phản ánh chân thành, cụ thể các sự việc có thực diễn ra phong phú trong hệ thống thi cử thời xưa. Đề cập đến chủ đề rất lớn thuộc quá khứ, Lều Chõng có công làm cho nước ta thành một nước có văn hóa, rồi chính nó đã đưa đất nước đến cõi diệt vong. Lều Chõng đã triển khai sâu rộng việc chẩn trị trọng bệnh quốc gia là nạn cử nghiệp đã hành hạ và tàn phá cơ thể xã hội trong thời gian rất dài.
Nằm trong tuyển tập Việt Nam danh tác, cuốn Lều Chõng của Ngô Tất Tố xứng đáng được thế hệ sau tìm hiểu và nghiền ngẫm. Đọc sách để có cái nhìn xuyên suốt quá khứ và hiện tại. Liệu sau này, con cháu của chúng ta có thấy, việc sống chết để vào một trường đại học của thời đại ngày nay cũng buồn cười như cái cách người người nhà nhà “đầu tư” vào một sĩ tử đi thi ngày xưa hay không?
Bài tham khảo Mẫu 2
Nếu độc giả yêu thích văn học Việt Nam, mà chưa từng đọc “Lều Chõng” – ắt hẳn sẽ là một thiếu sót lớn. Bởi sẽ không thể tìm được ở đâu một lối văn kể chuyện hấp dẫn đầy tính châm biếm đến vậy, một cuốn tiểu thuyết vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính văn học, tình cảm nhưng cũng đầy khoa học của nhà văn Ngô Tất Tố.
“Lều Chõng” là tiểu thuyết phóng sự lịch sử mô tả mạch lạc, sinh động toàn bộ hệ thống khoa cử từ khảo hạch, thi Hương, đến thi Hội cho tới thi Đình do nhà nước phong kiến thống lĩnh, chỉ đạo tổ chức thực hiện. câu chuyện về con đường tiến thân thông qua khoa cử của kẻ sĩ dưới thời phong kiến. Khắc họa cuộc sống của người dân luôn tin rằng hoặc hành thi đỗ làm quan là con đường độc nhất, khó khăn nhất nhưng cũng đầy vinh quang nhất. Ông Đồ, ông Nghè, Thám Hoa,… là những người luôn được coi là tầng lớp tri thức, được coi trọng trong xã hội. Nhưng chúng ta không hề biết để được những vị trí ấy, họ đã phải đánh đổi những gì. Thành công đặc sắc của “Lều Chõng” là thẳng thắn đề cập tới bi kịch của giới nhà Nho, đã vỡ mộng với ảo tưởng khao khát “cuộc đời vàng son” khi thành đạt, đã vô cùng ngán ngẩm kiếp sống lao đao trên “con đường lều chõng”, “kẻ sĩ” đã thức tỉnh, cùng người thân rũ bỏ tâm lý “đam mê hoài vọng về khoa cử”, thành tâm trở về với đời thường.
Tác phẩm kể lại hành trình đi thi đầy vất vả của Vân Hạc, với sự giúp đỡ, chăm sóc và ủng hộ của vợ, anh chàng lặn lội từ xa để đi thi. Nhà văn Ngô Tất Tố đã lột tả một cách sinh động, chân thực về vấn nạn thi cử lúc bấy giờ, tất cả được thể hiện qua nhân vật Vân Hạc. Tại trường thi, nơi coi là tôn nghiêm nhất cũng chẳng thiếu gì những âm mưu, thủ đoạn, quy định ngang trái và những thói lừa dối trắng trợn.
Trong Lều Chõng, tác giả chủ yếu dùng thủ pháp tả thực để tái hiện lại những khó khăn, gian truân mà sĩ tử trải qua trước khi đem về công trạng.“Càng về gần trưa, mưa càng dữ dội. Các rãnh trong vi đều thành luồng nước trắng xoá. Bong bóng nổi lên mặt nước lềnh bềnh. Một lát sau, nước dềnh lên khỏi mặt rãnh, nó tràn vào lều và lênh láng chảy qua gầm chõng. Vân Hạc đương ngồi trên chõng, gục đầu vào chiếc yên gỗ, hý hoáy viết mấy câu thơ, chợt thấy cái chõng tự nhiên thấp xuống dần dần, rồi nó lún xuống đến sát mặt đất, bùn nước theo khe nan chõng phòi cả lên trên mặt chõng.
Cái gì mà lạ thế nhỉ?
Thì ra khu đất trường thi, mấy tháng trước đây, chỉ là những ruộng lúa mùa. Kì thi sắp tới, lúa cũng vừa chín. Sau khi lúa cắt hết rồi, người ta đem trâu cày lên và đập qua loa cho vỡ những tảng đất lớn. Rồi họ đánh thành từng luống như luống khoai sọ để cho học trò cắm lều lên trên…”
Truyện Lều Chõng giúp chúng ta hiểu tỉ mỉ cảnh trường ốc, thi cử và những phong tục quy chế thời xưa. Đọc sách mới thấu hết cái vất vả của những người học trò nơi cửa Khổng sân Quỳnh. Dù là trời mưa giông bão gió hay ngày dài tháng rộng phải lội suối băng rừng, họ còn phải đối mặt với sự hung hiểm khi ngòi bút lỡ sai phạm húy. Tác giả còn lồng vào sách của mình nhiều thơ Hán, sau đó được dịch Nôm và trình bày khéo léo. Đây không chỉ là tiểu thuyết đọc cho vui mà còn là một tư liệu lịch sử chính xác cho thế hệ sau này.
Tác phẩm Lều chõng là sự chứng minh cho sự thích ứng với thời cuộc của Ngô Tất Tố đã mang đến những thành công, đáng được ghi nhận trong sự nghiệp làm văn của ông. Ngô Tất Tố xứng đáng là đại diện tiêu biểu cho sự thích ứng với thời cuộc của một bộ phận nhà văn trong thời kỳ giao thời, đó là biểu hiện của sự tiến bộ và luôn đi theo hướng phát triển chung của thời đại.
Như vậy, khi nhắc đến Ngô Tất Tố - Nhà văn giao thời, người ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông trong thời kỳ này đó là phóng sự Lều chõng. Từ đó, ta thấy tác phẩm này là tác phẩm có vị trí không nhỏ trong cuộc đời hành văn của Ngô Tất Tố.
Bài tham khảo Mẫu 3
Lều chõng đã đề cập đến việc ngày xưa, khi đi thi, thí sinh phải mang theo lều, chõng, thức ăn, lặn lội xa xôi lên kinh thành. Câu chuyện kể về Đoàn Vân Hạc là anh học trò thông minh, có lương tri và học giỏi. Anh cũng “đi học đi hiệu, đi thi đi thiếc” như trăm nghìn người khác. Anh hơn các bạn ở chỗ qua sách vở của thánh hiền, qua những lề lối phức tạp của thi cử và thái độ của quan trường về lựa chọn nhân tài, anh đã có một số nhận thức về học tập, về thi cử không giống với các bạn của mình. Nhưng trước sự mơ ước được làm bà Nghè bà Thám của vợ anh mà anh đã bị cuốn vào thi cử. Đoàn Vân Hạc đã đỗ Giải nguyên sau kì thi trước vì bị coi là tuổi trẻ, văn chương không khỏi có chỗ ngông nghênh, nếu cho đỗ lại sợ anh kiêu ngạo, vì vậy Vân Hạc đã vị cho hỏng tuột và hứa khoa sau sẽ cho đậu Giải nguyên. Vân Hạc đỗ Hội nguyên nhưng vì “phạm húy” trong kì thi Đình nên bị cầm tù và bị cách tuột thủ khoa, lúc này anh mới thật sự vỡ mộng. Cùng lúc ấy, thấy nghè Long bị cách chức tri phủ và phải đi “tiền quân hiệu lực” thì cô Ngọc, vợ Vân Hạc mới yên tâm làm một “chị đồ”.
Tác phẩm này viết về việc học hành, thi cử, về những nho sĩ suốt đời lấy con đường khoa cử làm con đường tiến thân nhưng họ lại hoàn toàn thất vọng sau bao cố gắng cực nhọc.
Vũ Trọng Phụng đã giới thiệu về ông như sau: “Ngô Tất Tố là một nhà báo về phái Nho học, và là một tay ngôn luận xuất sắc, trong đám nhà nho. Làng báo bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì, cũng như độc giả, hẳn không ai mà không biết đến danh tiếng người ra đời từ khi thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu chủ trương An Nam tạp chí và đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu, bút chiến, phê bình, nhiều truyện lịch sử rất có giá trị, trong nhiều tuần báo và tạp chí cả Nam lẫn Bắc. Với cái sự được đời hoan nghênh ấy Ngô Tất Tố chẳng cần ai giới thiệu nữa...” Qua lời giới thiệu trên, ta thấy Ngô Tất Tố hiện lên là một con người có hoạt động rộng. Ở đây chúng ta chú ý đến thể phóng sự, ở thể loại này ông đã tham gia một cách nhiệt tình và gặt hái được nhiều thành công.
Văn học của cả giai đoạn 1900 – 1930 có tính chất giao thời. Tính chất giao thời đó biểu hiện ở sự tồn tại song song của hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng, hai loại ngôn từ văn học ở hai địa bàn khác nhau. Trong thời kỳ biến động của những năm này, trong những học trò của Khổng Tử, nhiều người ngơ ngác tụt lại phía sau, với Ngô Tất Tố không ông đã cố gắng vươn lên phía trước, đuổi kịp thế hệ tuổi trẻ và trở thành một cây bút tiêu biểu đứng trong hàng ngũ của những nhà văn tiến bộ nhất của lớp người thuộc giới nho học cuối cùng. Điều đó đã làm cho Trần Minh Tước phải viết: “Ngọn bút của ông đồ nho Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngọn bút của cái thế hệ sản xuất những câu “điền viên vui thú vị” hoặc có muốn thiên về dân quê một cách thiết tha hơn thì bất quá và đáng lẽ ngọn bút ấy chỉ viết những bài có cái tiêu đề “cải lương hương chính” mà 15 năm trước đây chúng ta đã được đọc trên các báo. Không, nhà nho ấy đã vượt khỏi cái thế hệ của mình. Người môn đệ của Khổng, Mạnh này đã thở hút cái không khí xã hội của K. Marx như tất cả các thiếu niên văn sỹ ở hàng tranh đấu”
Ngô Tất Tố là một nhà văn có bản lĩnh, một cây bút có khuynh hướng tư tưởng độc lập và luôn có tinh thần sẵn sàng vươn lên mọi khó khăn, bỏ xa những thứ ông cho là lạc hậu, lỗi thời để đi tới cái tiến bộ, hợp với thời đại. Ông được nhắc tới là một “nhà văn giao thời”, bởi cái tính chất giao thời đã xuất hiện trong sáng tác của ông, qua tác phẩm Lều chõng. Tác phẩm được ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chịu ách nô lệ của thực dân Pháp, kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, với những giáo lý cổ hủ lạc hậu đã tồn tại ở nước ta hàng 1.000 năm. Tác phẩm đã tái hiện lại mọi mặt bất công ngang trái của một chế độ khoa cử ở xã hội cũ, nó như tiếng nói bênh vực cho các sĩ tử thông minh học giỏi nhưng luôn lận đận trên con đường cử nghiệp.
Viết tác phẩm này tác giả muốn người đọc nhận thức được những mặt trái của chế độ khoa cử. Nhà phê bình Phan Cự Đệ có nhận xét: “Dưới ngòi bút châm biếm sắc sảo của Ngô Tất Tố, trường thi được miêu tả “như sân khấu rạp tuồng”, trên đó các quan giám khảo múa may “giống hệt những quan phường chèo”! Còn cái ông tiến sĩ cờ biển vinh quy về làng lại “giống như những ông nghè bằng giấy mà hằng năm đến rằm tháng tám, người ta vẫn trông thấy ở cỗ “trông trăng” Trong lời giới thiệu về Lều chõng (nhà xuất bản văn học, 2002), có đoạn: “Tác phẩm của Ngô Tất Tố như một lời cải chính, hơn thế, một bản tố cáo chế độ khoa cử lỗi thời và thấp thoáng sau mỗi chương, mỗi hàng chữ là một nụ cười chế giễu, có khi là tiếng cười ra nước mắt.” Tác phẩm chủ yếu là một tấn bi kịch của những nhà nho trí thức dưới chế độ phong kiến. Đó là sự sụp đổ thảm hại về mặt tinh thần của những người trí thức suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân.
Tác phẩm Lều chõng là sự chứng minh cho sự thích ứng với thời cuộc của Ngô Tất Tố đã mang đến những thành công, đáng được ghi nhận trong sự nghiệp làm văn của ông. Ngô Tất Tố xứng đáng là đại diện tiêu biểu cho sự thích ứng với thời cuộc của một bộ phận nhà văn trong thời kỳ giao thời, đó là biểu hiện của sự tiến bộ và luôn đi theo hướng phát triển chung của thời đại.