Phân tích văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà
I.Mở bài: - Dẫn dắt giới thiệu về tác giả và tác phẩm “Người ngồi đợi trước hiên nhà”
Dàn ý chi tiết
I.Mở bài
- Dẫn dắt giới thiệu về tác giả và tác phẩm “Người ngồi đợi trước hiên nhà”
II. Thân bài
1. Khái quát
a. Tác giả:
- Huỳnh Như Phương sinh năm 1955, quê quán ở Quảng Ngãi.
- Ông là giảng viên văn học tại Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM, đồng thời là nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước năm 1975.
b. Tác phẩm:
- Văn bản “Người ngồi đợi trước hiên nhà” được viết vào năm 2015, in trong “Thành phố những thước phim quay chậm, Tản văn”.
- Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa.
2. Phân tích:
a. Tình cảnh của hai vợ chồng dì Bảy:
Dượng Bảy mồ côi cha mẹ, đi đóng quân ở ngôi làng và gặp dì. Họ lấy nhau mới được một tháng thì dượng Bảy đã phải đi tập quân ra Bắc.
b. Cuộc sống dì Bảy trong những năm tháng kháng chiến:
- Dù đã bị chia cắt, dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó.
- Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc: “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”.
- Dù có những người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì vẫn giữ niềm tin chồng mình sẽ trở về.
c. Cuộc sống của dì Bảy sau khi hòa bình lập lại:
- Đến năm 1975, gia đình mới nhận giấy báo tử. Dượng hi sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn.
- Tình yêu, lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi:
+ Lòng dì đã không còn rung động trước bất kì ai.
+ Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ.
+ Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà.
3. Đánh giá
- Giá trị nội dung:
+ Lên án chiến tranh cuớp đi hạnh phúc con người.
+ Ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt.
- Giá trị nghệ thuật:
+ Tình huống truyện hấp dẫn, cảm động.
+ Ngôi kể thứ nhất xưng “Tôi”.
+ Ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc.
+ Cách miêu tả nhân vật chân thật, sinh động.
III. Kết bài
-Khẳng định giá trị của tác phẩm.
Bài tham khảo Mẫu 1
“Em tiễn đưa anh như ngọn lửa
Đấy lòng anh mãi chiến trường xa”
Những cuộc tiễn đưa, những cái nắm tay, những lời chào chia ly trong chiến tranh đã đi vào văn chương một cách bình dị mà sâu lắng. “Người ngồi đợi trước hiên nhà “ của tác giả Huỳnh Như Phương cũng là câu chuyện về tình yêu, sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian của con người trong và sau chiến tranh.
Tản văn là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa. Ngôi kể thứ nhất, xưng là “tôi” đã giúp cho những chi tiết, sự kiện trong truyện hiện lên chân thật, khách quan hơn.
Bối cảnh mở đầu của câu chuyện chính là những năm tháng đất nước đang chìm trong đau thương của chiến tranh. Sau khi hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, có biết bao người dân vì đấu tranh cho Tổ quốc mà phải rời xa quê hương. Trong đó, ở phía sau là hình bóng những người mẹ, người vợ, những đứa con. Gia đình dì Bảy và dượng Bảy cũng là một trong số đó. Họ lấy nhau mới được một tháng thì dượng Bảy đã phải đi tập kết ra Bắc. Với một cặp vợ chồng mới cưới, thì việc ở bên cạnh nhau cũng là một cách để có thể vun vén hạnh phúc gia đình và chăm lo, đỡ đần cho nhau trong những ngày tháng gian khó. Ấy vậy mà dì Bảy và dượng Bảy phải sống trong cảnh mỗi người một phương.
Cuộc chiến tranh đã gieo vào lòng người đi, kẻ ở muôn vàn nỗi xót xa. Dù đã bị chia cắt làm nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng còn dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”. Tình yêu thương thì vẫn luôn tồn tại nơi trái tim mỗi người, vượt lên khoảng cách địa lí.
Khi dượng ra đi, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm sau đó có những người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì giữ niềm tin có ngày chồng mình sẽ trở về. Thế mới thấy tình yêu thương dì Bảy dành cho chồng lớn lao và cao cả biết bao: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”.
Tưởng rằng sự chờ đợi sẽ được đền đáp xứng đáng, nhưng chiến tranh thật tàn độc khi cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: "dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng". Nước mắt như nghẹn lại, tác giả không khỏi thương xót thay cho dì Bảy trước sự hi sinh của chồng. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, "mỏi mắt nhìn ra đường cái" nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, "mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử". Chiến tranh thì ắt hẳn sẽ có những giọt máu rơi xuống nền đất, sẽ có những xác người bạt ngàn nẻo đường. Với dì Bảy, đó là một nhát dao cứa thẳng vào trái tim khi mất đi người mà mình đã yêu thương chờ đợi.
Không còn chồng ở bên cạnh, mất đi bóng hình thân thuộc ấy nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Nhân vật người cháu đã xót thương và cảm phục trước lòng chung thủy, kiên cường của dì.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và biểu cảm, ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc, Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc khắc họa chân dung dì Bảy và dượng Bảy trong hoàn cảnh bấy giờ một cách chân thực nhất. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là biểu tượng cao đẹp cho người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hy sinh tình cảm cá nhân để góp vào sự hòa bình Tổ quốc. Qua đó, tác giả đã phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác, đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.
Bài tham khảo Mẫu 2
Đầu tiên ta đi vào hoàn cảnh chia ly của đôi vợ chồng dì dượng Bảy. Năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết khiến cho những người con ở Quảng Nam phải ra Bắc sống và làm việc. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau mới được một tháng trời thì người chồng phải tập quân ra Bắc, hoàn cảnh chưa được hạnh phúc bao lâu mà đã phải nói lời từ biệt. Không chỉ riêng gì dì dượng Bảy mà tất cả mọi người đều vậy, chiến tranh đã khiến cho các gia đình lâm vào cảnh ly tán, vợ tiễn chồng, tiễn con lên đường “đôi người đôi ngả”. Cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ của đất nước ta đã khiến dượng Bảy và nhiều người con đất Quảng khác phải lên đường gánh vác trên vai trách nhiệm to lớn với đất nước, tất cả cho thấy chiến tranh thật tàn nhẫn, nó đã chia cắt hạnh phúc gia đình lứa đôi đẩy cuộc sống của người dân vào hoàn cảnh cô đơn chia cắt.
Đau lòng vì phải chia ly là vậy nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng cong dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng là một lá thư gói trong bọc ni lông…”, “gần cuối cuộc chiến tranh tin tức của dượng về nhà thường xuyên hơn”, “… dượng nhờ người báo tin cho gia đình và gửi tặng dì tôi một chiếc nón bài thơ mua được trên đường hành quân." Mặc dù chiến tranh đã chia cắt nhau là vậy nhưng họ vẫn luôn hướng về nhau, nó có thể chia cắt được thể xác chứ tình cảm thì không. Dì Bảy vẫn luôn chờ đợi dượng Bảy suốt hai mươi năm trời với niềm tin nung nấu rằng chồng mình sẽ quay trở về dù có người ngỏ ý dạn hỏi. Dì Bảy hết sức yêu thương chồng: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”. Thế rồi chuyện gì đến cũng vẫn sẽ đến, chiến tranh đã cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: "dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng". Đến đây tác giả đã bộc lộ cảm xúc xót thương cho nhân vật dì Bảy trước sự hi sinh của dượng Bảy. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, "mỏi mắt nhìn ra đường cái" nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, "mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử",. Bom đạn trong chiến tranh không những chia cắt con người mà còn cướp đi mạng sống của những người thân yêu, đẩy họ vào đau khổ tột cùng, để lại nỗi khổ đau, nhớ nhung cho những người ở lại như dì Bảy cũng như người dân Việt Nam ta lúc bấy giờ.
Dù dượng Bảy đã mất nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động.”, “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Qua lời kể của tác giả cho thấy tác giả đầy xót xa thương cảm. Đứa cháu thương cho người dì cô quạnh, đồng thời cũng cảm phục lòng chung thủy, kiên cường của người phụ nữ ấy. Tác giả thương cảm cho số phận của người dì, dì rất mực yêu thương chồng nhưng hoàn cảnh chiến tranh đã đẩy dì và thế chia ly và mất đi người chồng đầu gối tay kề với mình. Cuộc sống cô đơn lẻ loi trong những ngày bão lụt, không biết nương tựa vào ai. Dù vậy nhưng dì Bảy vẫn một lòng chung thủy với người chồng đã khuất của mình. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ Việt Nam ta với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hi sinh tình cảm cá nhân để góp phần vào nhiệm vụ lớn lao đối với Tổ quốc. Tác phẩm được kể theo ngôi thứ nhất, xưng là tôi. Đó chính là tác giả trong vai người cháu chứng kiến toàn bộ câu chuyện và kể lại khiến cho câu chuyện trở nên chân thật, khách quan hơn. Từ đó tác giả muốn lên án chiến tranh tàn khốc đã chia lìa và cướp đi sinh mạng của bao người dân ta, đồng thời để lại cho người ở lại nỗi đau buồn không gì có thể bù đắp được.
Với sự kết hợp của tự sự và biểu cảm, giọng kể đầy xúc cảm, tác giả Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc kể lại câu chuyện của dì dượng Bảy một cách chân thật nhất. Đồng thời tác giả muốn lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm chia cắt bao gia đình và nó đã cướp đi sinh mạng của bao con dân Việt Nam ta trong thời kỳ chống Mỹ, xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường, ca ngợi đức tính hy sinh cao cả mà thầm lặng của những người phụ nữ anh hùng dân tộc Việt Nam ta.
Bài tham khảo Mẫu 3
Tản văn "Người ngồi đợi trước hiên nhà" của tác giả Huỳnh Như Phương thể hiện một câu chuyện về tình yêu và sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian trong và sau chiến tranh. Nói về những cuộc tiễn đưa, những nắm tay, và những lời chào chia ly trong chiến tranh, tác phẩm tạo ra một bức tranh đậm chất nhân văn và đầy xúc động.
Tản văn bắt đầu bằng việc đặt bối cảnh vào thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Sau hiệp định Geneva vào cuối năm 1954, nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, và nhiều người phải rời xa quê hương để tham gia vào cuộc chiến tranh chống quân xâm lược. Trong bối cảnh đó, tác giả lồng ghép câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy, một phụ nữ trẻ, mới lấy chồng một tháng, nhưng đã phải đối mặt với việc chồng mình phải đi tập kết ra Bắc.
Dì Bảy và dượng Bảy, mặc dù chỉ mới kết hôn một tháng, bị chia cắt do chiến tranh. Dì Bảy vẫn chăm sóc nhà, vườn và nhà thờ của gia đình. Dượng Bảy, dù ở xa, luôn tìm cách liên lạc với dì qua các lá thư, mang theo tin tức và hy vọng. Dì Bảy không bao giờ mất niềm tin vào việc chồng mình sẽ trở về.
Khi dượng Bảy hy sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, Dì Bảy tiếp tục chăm sóc gia đình và sống cô đơn. Tình yêu thương và lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi. Dì Bảy luôn nhớ về người chồng mình và cất tiếng chờ đợi, ngồi trước hiên nhà như một biểu tượng cho sự kiên trì và tình yêu chân thành.
Tác phẩm "Người ngồi đợi trước hiên nhà" giá trị cao về nội dung và nghệ thuật. Nó lên án sự tàn khốc của chiến tranh và tôn vinh tình yêu và lòng chung thủy của dì Bảy. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giàu chất thơ và lời kể tinh tế để diễn đạt cảm xúc và tình cảm của nhân vật. Bằng cách khắc họa chân thực nhân vật dì Bảy và dượng Bảy trong bối cảnh chiến tranh, tác phẩm tạo ra một bức tranh rõ nét về cuộc sống và tình yêu trong thời kỳ khó khăn. Nó cũng tôn vinh lòng kiên nhẫn và trung thủy của người phụ nữ Việt Nam, những người đã hy sinh và chờ đợi trong bão táp của chiến tranh. Sự kiên nhẫn, trung thực và lòng kiên định của dì Bảy là biểu tượng cho tình yêu và lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Cuộc sống của dì Bảy, sau khi mất đi chồng, tiếp tục sống cô đơn và luôn nhớ về người chồng mình, đặc biệt là việc ngồi trước hiên nhà làm cho người đọc cảm nhận được sự kiên định và chờ đợi của bà.
Tác phẩm khắc họa chân thực và đầy cảm xúc cuộc sống và tình yêu trong thời kỳ khó khăn. Nó giúp người đọc hiểu thêm về sự hy sinh và lòng kiên nhẫn của những người phụ nữ trong gia đình, những người đã đối mặt với những khó khăn và đau thương trong thời gian chiến tranh.