Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
I.Mở bài: -Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Bà cụ Tứ.
Dàn ý chi tiết
I.Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Bà cụ Tứ.
II.Thân bài
a/ Nhân vật bà cụ Tứ:
* Một người mẹ nông dân nghèo khổ:
- Dáng hình : "lọng khọng", "gầy gò".
- Cảnh ngộ: bà lão nghèo khổ, già nua lại cô đơn vì chồng và con gái út đã chết, đứa con trai đã lớn tuổi nhưng vì nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư nên không lấy được vợ.
- Cuộc sống nghèo khó: căn nhà rúm ró trên mảnh vườn nhỏ, sống qua ngày bằng những bữa ăn khốn khó, khi thì lùm rau chuối thái rối, khi thì nồi cháo cám, không có nổi vài ba mâm cơm cúng tổ tiên khi có nàng dâu mới.
→ Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng.
* Vẻ đẹp ở tấm lòng nhân hậu, bao dung:
Dù người mẹ già ấy có thân phận, hoàn cảnh sống nghèo khó nhưng trong lòng vẫn luôn chan chứa tình yêu thương dành cho các con, có những ứng xử chân thành, đầy tình nghĩa đối với cả con trai và con dâu :
- Vượt qua những nghi lễ thông thường, bà cụ đồng ý cho người đàn bà xa lạ làm con dâu mình và còn thấy thương xót, thấu hiểu cho hoàn cảnh của người đàn bà ấy.
- Bà nói chuyện với con dâu nhẹ nhàng, từ tốn, nhìn con dâu với tình cảm xít thương trào dâng: "Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá".
- Bà vui mừng vì các con mình đx yên bề gia thất " Các con...mừng lắm"
* Vẻ đẹp ở tâm hồn giàu niềm tin và hi vọng:
Người mẹ nghèo ấy trong mọi hoàn cảnh dù khắc nghiệt nhất, đáng buồn tủi nhất vẫn cố gắng xua tan những buồn lo để vui sống, khơi lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng cho con cái, trở thành chỗ dựa tinh thần vững chãi cho các con :
- Trong ý nghĩ: bà vui với triết lí dân gian giản dị mà sâu sắc: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"
- Trong lời nói: Bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này: " Tràng ạ, khi nào...đàn gà cho mà xem".
- Trong hành động:
+ Cùng con dâu thu dọn nhà cửa, quét dọn sân vườn cho sạch sẽ.
+ Nấu một nồi cháo cám bổ sung vào bữa ăn ngày đói như để ăn mừng nhân ngày con trai lấy được vợ.
* Vẻ đẹp ở nội tâm với những nét tâm lí chân thực, phong phú, giàu sức lay động:
- Khi ai oán xót xa (trách mình không làm tròn bổn phận người mẹ, không lo được cho con), khi buồn tủi lo lắng (hiện thực cuộc sống nghèo khổ), khi vui mừng phấn chấn rạng rỡ (nghĩ về tương lai)…
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Nhân vật được đặt trong tình huống truyện độc đáo, diễn biến tâm lí được miêu tả tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị …
III.Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật
- Khẳng định tài năng và tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
Bài tham khảo Mẫu 1
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ được Kim Lân khắc họa trong tác phẩm là một phụ nữ nông dân nghèo khổ. Ngay từ cái tên, người đọc đã thấy được về xuất thân của nhân vật. Sống trong xã hội Việt Nam xưa cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả. Cả cuộc đời bà mưu sinh cực nhọc để nuôi con. Đến khi già cả vẫn không được hưởng cuộc sống sung sướng, mà lại phải chịu cảnh đói kém hoành hành. Nhân vật không xuất hiện từ đầu tác phẩm mà chỉ đến khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, nhà văn mới khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Đó là hình ảnh của một bà lão, dáng đi thì chậm chạp, đôi mắt kèm nhèm. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán một cái gì đó.
Nhưng đặc biệt hơn cả là tình mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ. Điều đó được thể hiện qua tình huống Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà. Khi nhìn thấy có người lạ mặt trong nhà, trong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc. Những câu hỏi liên tiếp vang lên trong suy nghĩ của bà: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Rồi bà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích. Đến khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng. Những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ. Nhưng đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng cũng đã đến tuổi dựng vợ. Thương con, bà lại càng xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Việc lấy vợ trọng đại cả đời, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” - đó phải chăng là sự mặc cảm của người mẹ khi không thể lo cho con tử tế.
Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ lại còn thương cả con dâu. Điều đó đã thể hiện một tấm lòng nhân văn sâu sắc. Bà đồng cảm với hoàn cảnh của cô vợ nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Bà còn an ủi con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này…”.
Nhưng hiện thực cuộc sống khiến bà không khỏi lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...”, “bà nghẹn lời không nói được nữa”. Đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của một người mẹ.
Không chỉ vậy, bà cụ Tứ còn là người truyền ngọn lửa niềm tin vào tương lai đến các con. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ. Dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với “mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng” thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ sau này. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Tấm lòng của một người mẹ cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên các con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa. Cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù sống trong sự nghèo khó thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành điểm sáng tinh thần cho những đứa con.
Bài tham khảo Mẫu 2
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lâm. Truyện đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ - một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, vị tha và là điểm sáng tinh thần cho những đứa con.
Nhân vật bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu trong tác phẩm. Kim Lân đã cho nhân vật xuất hiện trong hoàn cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về ra mắt mẹ, để từ đó làm nổi bật lên hình ảnh bà cụ Tứ với những phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên, ngoại hình của bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Người đọc như bắt gặp lại dáng hình gầy gầy, còng đi vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Hình ảnh bà cụ Tứ là đại diện mang dáng vẻ chung của những người mẹ nông dân Việt Nam:
“Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ”
(Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm)
Cách dùng từ của nhà văn thật tinh tế, chỉ với từ “lọng khọng” nhưng đã cho thấy cái dáng hình nhỏ bé, chậm chạm và già cả của một bà lão. Cùng với đó là thói quen tính toán chi li, cẩn thận của những bà mẹ Việt Nam. Cuộc đời của bà cụ Tứ cũng giống như biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa.
Khi bước vào trong nhà, bà cụ Tứ nhìn thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngỡ ngàng, thắc mắc. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Từ sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến hành động: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu” để chờ đợi lời giải thích từ anh con trai. Chỉ đến khi nghe Tràng nói: “Nhà tôi nó chào u”, người mẹ ấy mới chợt hiểu ra: “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình” Để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa tủi. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật cay đắng, xót xa. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ: “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Bà cụ Tứ khóc vì thương con, lòng tự trách đã không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ.
Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ cũng thương cả con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tấm lòng bao dung khiến bà đồng cảm với hoàn cảnh của con dâu: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Và từ đó mà người mẹ ấy cảm thấy vui vẻ khi con trai có được vợ: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Sự ân cần hỏi han “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”, động viên con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tất cả đã cho thấy tấm lòng cao cả của một người mẹ.
Đặc biệt nhất, nhân vật bà cụ Tứ được Kim Lân xây dựng với tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Bà đã trở thành điểm sáng tinh thần cho Tràng và người vợ nhặt. Chính bà là người động viên các con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Trong bữa ăn ngày đói, người mẹ ấy chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ. Cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán”: Bà lão múc ra một bát. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần. Điều đó cho thấy ở người mẹ này, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.
Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ nhưng đầy tấm lòng yêu thương, bao dung. Bà chính là chỗ dựa tinh thần cho những đứa con.
Bài tham khảo Mẫu 3
Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng ruộng". "Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. " Vợ nhặt" - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những "niêu bát, xống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào một chiếc bóng "lọng khọng" đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại", càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình "nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng "giới thiệu" người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...".
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết con. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới, cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" rồi sưng "u" một cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "...Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".
Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "Rồi may ra ông trời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau"...
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám "đắng chát" là "chè khoán" rối rít khen "ngon đáo để", ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!". Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị "đắng chát" của nồi cháo cám ấy. Vì trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi... Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ... Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:
"Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa".
Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn " Vợ nhặt" này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn " Vợ nhặt" của Kim Lân với nhiều bâng khuâng.