Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương trang 43 SGK Văn 9 — Không quảng cáo

Soạn văn 9 tất cả các bài, Ngữ văn 9 , tổng hợp văn mẫu hay nhất


Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương trang 43 SGK Văn 9

2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong những hoàn cảnh khác nhau và nàng đã bộc lộ được những đức tính đáng quý như:

Câu 1

1. Đại ý: Đây là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phu quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Tác phẩm cũng thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chi là ở một thế giới huyền bí.

-     Bố cục: Truyện có thế chia làm 3 đoạn:

*   Đoạn 1- Từ đầu truyện đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.

*  Đoạn 2: “Qua năm sau... nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

*  Đoạn 3: Phần còn lại, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác.

Câu 2

2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong những hoàn cảnh khác nhau và nàng đã bộc lộ được những đức tính đáng quý như:

-    Tình huống 1: Trước tính hay ghen của Trương Sinh, trong “giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để vợ chồng phải đến thất hòa”.

-     Tình huống 2: Khi tiễn chồng đi lính, lời dặn dò đầy tình nghĩa của Vũ Nương, không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về; cảm thông trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng; nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình.

-    Tình huống 3: Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy , nhung nhớ chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng. Những hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” — chỉ cảnh mùa xuân vui tươi, “mây che kín núi - chỉ cảnh mùa đông ảm đạm. (Đó là những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để chỉ sự trôi chảy của thời gian). Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tình chăm sóc mẹ già những lúc yếu đau, lo thuốc thang, cầu khẩn thần Phật, và lúc nào cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Đặc biệt lời nói cuối cùng của mẹ chồng đã thể hiện sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình chồng. Và khi bà chết “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình...”.

-     Tình huống 4: Khi bị chồng nghi oan. Có 3 lời thoại của Vũ Nương:

Lời thoại 1: Phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Vũ Nương nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩ là đã hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

Lời thoại 2: Nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đôi xử bất công, bị “mắng nhiếc... và đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho”. Hạnh phúc gia đình “thú vui nghi gia nghi thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió...”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa “đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.

Lời thoại 3: Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn con sông quê hương để giải tỏ tấm lòng trong trắng của mình, nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng.... Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính. Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận sô phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bão toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí (Chi tiết “tắm gội chay sạch” và lời nguyện cầu của nàng), không phải là hành động bộc phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả (Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước).

*    Tóm lại: Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.

Câu 3

3. Nhân vật Trương Sinh:

-     Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kịch của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo: Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, lấy Trương Sinh là “được nương tựa nhà giàu”, Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.

-     Trong đời sống vợ chồng, Trương là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”

-     Hết chiến tranh, Trương Sinh trờ về và đối diện với nỗi mất mát: mẹ già thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời.

Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngâv thơ của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra hai phần, phần sau thông tin càng “ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha: Người cha - Trương Sinh biết nói, còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít. Sau đó lại thêm những thông tin: “một người đàn ông, đêm nào cùng đến, mẹ Đản đi củng đi, mẹ Đản ngồi củng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu dâm phụ, huống chi là Trương Sinh: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.

Tuy nhiên, điều đáng tránh là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um lên cho hả giận. Chàng không còn bình tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, củng chẳng ăn thua gì”. Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột: kể lại câu chuyện của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng không cho nàng có cơ hội để minh oan khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo: “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hành động ấy đã bức tử Vũ Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thế làm cho Trương tỉnh ngộ đế tin nàng trong sạch. Chàng vẫn giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.

Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.

Câu 4

4. Nhận xét: về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả: trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có tính chất quyết định, có ý nghĩa đến quá trình diễn biến của truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho truyện trở lên hấp dẫn và sinh động hơn. Chẳng hạn thêm chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng vàng” cưới Vũ Nương, cuộc hôn nhân trở nên có tính chất mua bán: lời trăng trối của bà mẹ chồng khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng; những lời phân trần; giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động bình tĩnh, quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết... Lời nói của đứa trẻ, cái cớ để Trương Sinh nổi máu ghen được đưa ra dần dần và thông tin ngày một gay cấn, làm cho nút thắt ngày một chặt hơn. Để rồi sự thật được làm sáng tỏ sau khi Vũ Nương đã không còn nữa. Truyện trở nên có tính kịch hơn, gợi cảm hơn..

-     Giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại và những lời tự bach của nhân vật: truyện có nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật. được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện kể trở nên sinh độns hơrn góp phần không nhỏ vào việc khắc họa quá trình tâm lí và tính cách nhân vật (Lời nói của bà mẹ Trương Sinh là của một người nhân hậu và từng trải; lời của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có tình, có lí, ngay cả trong lúc đang tức giận nhất, là của một người phụ nữ hiền thục, nết na, trong trắng, không có gi khuất tất, lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà....)

-     Tìm những yếu tố truyền kì: Chuyện Phan Lang năm mộng rồi thả rùa; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn tràng giải nỗi oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh, huyền ảo, với “kiệu hoa... cờ tán, võng lọng rực rỡ... lúc ẩn, lúc hiện,” rồi bỗng chốc “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Đó là những yếu tố không thể thiếu của loại truyện truyền kì.

-     Cách thức đưa những yếu tố truyền kì vào truyện của Nguyễn Du: các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh (bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng, về thời điểm lịch sử (cuối đời Khai Đại nhà Hồ), nhân vật lịch sử (Trần Thiêm Bình) sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược nước ta, nhiều người chạy trốn ra bể, rồi bị đắm thuyền), những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân (quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ, riêng Vũ Nương mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn), về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất (cây cối thành rừng, cỏ gai rợp mắt)... Cách thức này làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

-     Ý nghĩa của những yêu tố truvển kì: Trước hết nó làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp của nhân vật Vũ Nương, một con người dù đã ở thế giới khác, vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Điều quan trọng hơn là những yếu tô truyền kì đó đã tạo nên một kêt thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời, người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.

Tuy nhiên qua màn khói kì ảo này, ta vẫn thấy một thân phận bi thảm rất tiêu biểu cho người Việt Nam sống trong chế độ nam quyền.


Cùng chủ đề:

Soạn bài Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông ten (bài 1) (chi tiết)
Soạn bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới (chi tiết)
Soạn bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới_bài 1
Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (chi tiết)
Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương (chi tiết)
Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương trang 43 SGK Văn 9
Soạn bài Chương trình địa phương (phần Tập làm văn) lớp 9 tập 2
Soạn bài Chương trình địa phương (phần Tiếng Việt) trang 97 SGK Ngữ văn 9 tập 2 (chi tiết)
Soạn bài Chương trình địa phương (phần Tiếng Việt) trang 175 SGK Văn 9 (chi tiết)
Soạn bài Chương trình địa phương (phần Văn) - Chi tiết
Soạn bài Con chó Bấc