Soạn bài Người thầy đầu tiên SGK Ngữ văn 8 tập 2 Cánh diều - chi tiết
Đọc trước đoạn trích Người thầy đầu tiên; tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov).
Nội dung chính
Người thầy đầu tiên ca ngợi người thầy Đuy-sen với những tâm huyết, sự tận tụy và tình cảm mà thầy dành cho học sinh của mình, đặc biệt là An-tư-nai. Người thầy Đuy-sen đã thay đổi cuộc đời của cô bé An-tư-nai, người đã vun trồng ước mơ, hy vọng cho những học trò nhỏ. |
Chuẩn bị
(trang 20, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Đọc trước đoạn trích Người thầy đầu tiên ; tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn Trin-ghi-dơ Ai-ma-tốp (Chyngyz Aitmatov).
Phương pháp giải:
Đọc đoạn trích và tìm hiểu thêm thông tin về tác giả
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Chingiz Aitmatov (1928-2008) là một nhà văn, nhà văn học và chính trị gia người Kyrgyzstan. Ông được biết đến là một trong những nhà văn hàng đầu của Kyrgyzstan và đã viết nhiều tác phẩm văn học có ảnh hưởng lớn tới văn hóa và xã hội Kyrgyzstan và nhiều nước khác trên thế giới.
- Ai-ma-tốp (1928 – 2008) là nhà văn Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ờ vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây.
- Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư- xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát- xcơ-va. Sau khi tốt nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo Sự thật thường trú tại Cư-rơ-gư-xtan.
- Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.
Đọc hiểu 1
Câu 1 (trang 21, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Nguyên nhân nào khiến nhân vật “tôi” “lặng người đi vì kinh hãi”?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn bản ứng với câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Nguyên nhân khiến nhân vật "tôi" "lặng người đi vì kinh hãi" là vì cô bé nhận ra điều mà thím cô muốn làm với cô.
Vì cô bé nhận ra điều mà thím cô muốn làm với cô.
Đọc hiểu 2
Câu 2 (trang 21, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Ý nghĩa của việc trồng hai cây phong là gì?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn bản ứng với câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Hai cây phong được gửi gắm biết bao ước mơ và hi vọng về một thế hệ trẻ, thế hệ mới sẽ làm đổi thay cho làng Ku-ku-rêu. Hai cây phong chính là hiện thân xúc động cho khoảng trời ấu thơ nghĩa tình, là nơi lưu giữ những kỉ niệm của bao thế hệ học trò làng Ku-ku-rêu bé nhỏ.
- Là hiện thân xúc động cho khoảng trời ấu thơ nghĩa tình
- Là nơi lưu giữ những kỉ niệm của bao thế hệ học trò làng Ku-ku-rêu bé nhỏ.
- Gửi gắm ước mơ và hi vọng về một thế hệ mới có thể làm cho làng Ku-ku-rêu thay đổi theo hướng tích cực.
- Hai cây phong chính là khoảng trời thơ ấu là nơi chôn giấu những kỉ niệm của biết bao thế hệ học trò của làng Ku-ku-rêu.
Đọc hiểu 3
Câu 3 (trang 24, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Tình cảnh của An-tư-nai sau khi bị bắt như thế nào?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn bản ứng với câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Sau khi bị bắt, An-tư-nai tỉnh lại vào ban đêm trong một cái lều vải. Bên cạnh túp lều là dòng suối, trong không gian vẫn còn văng vẳng tiếng nói chuyện của những người chăn cừu và đối diện cô là một bà lão đang ngồi yên.
Tình cảnh: tỉnh lại vào ban đêm trong một cái lều vải cạnh dòng suối, văng vẳng tiếng nói chuyện của những người chăn cừu và đối diện cô là một bà lão đang ngồi yên.
Đọc hiểu 4
Câu 4 (trang 24, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Điều gì bất ngờ đã xảy ra?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn bản ứng với câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Điều bất ngờ đã xảy ra là việc thầy giáo Đuy-sen xuất hiện cùng hai viên cảnh sát.
Thầy giáo Đuy-sen xuất hiện cùng hai viên cảnh sát.
Đọc hiểu 5
Câu 5 (trang 25, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Những lời nhân vật “tôi” thì thầm có ý nghĩa gì?
Phương pháp giải:
Trả lời theo ý hiểu
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Nhân vật "tôi" muốn nghe theo lời thầy Đuy-sen, muốn quên hết đi những tủi nhục mà mình phải chịu trong mấy ngày bị bắt. Cô muốn trở nên trong sạch, muốn bắt đầu lại một cuộc đời.
Ý nghĩa: khiến An-tư-nai có động lực muốn trở nên trong sạch, muốn bắt đầu lại một cuộc đời.
Đọc hiểu 7
Câu 7 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Phần (3) là những lời tâm sự của An-tư-nai vào thời điểm nào?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn bản
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Phần 3 là những lời tâm sự của An-tư-nai vào thời điểm cô đã lớn, đã trưởng thành
Thời điểm cô đã lớn, đã trưởng thành.
CH cuối bài 1
Câu 1 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Đoạn trích Người thầy đầu tiên kể về chuyện gì? Truyện được kể ở ngôi thứ mấy? Ngôi kể ấy có tác dụng như thế nào?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Văn bản Người thầy đầu tiên kể về thầy giáo Đuy-sen hết lòng vì học trò và cô học trò An-tư-nai thông minh lanh lợi. Qua đó người đọc thấy được tình cảm thầy trò cao quý và thiêng liêng.
Truyện được kể ở ngôi kể thứ nhất làm cho người đọc nắm bắt tâm trạng nhân vật sâu sắc, sinh động, chân thật và gần gũi hơn. => Bộc bạch trực tiếp, chân thực cảm xúc nhân vật.
- Kể về thầy giáo Đuy-sen hết lòng vì học trò và cô học trò An-tư-nai thông minh lanh lợi.
- Ngôi kể thứ nhất => Bộc bạch trực tiếp, chân thực cảm xúc nhân vật.
– Đoạn trích Người thầy đầu tiên kể về kí ức đau buồn của An-tư-nai khi còn ở ngôi làng Ku-ku-rêu hẻo lánh: bị người thân bán làm vợ lẽ cho một kẻ giàu có.
– Truyện được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện chính là nhân vật An-tư-nai.
– Ngôi kể thứ nhất khiến câu chuyện được kể lại chân thật, sinh động và giàu cảm xúc khi biểu cảm trực tiếp, thể hiện cảm xúc chân thực trước những sự việc mà nhân vật tham gia...
CH cuối bài 2
Câu 2 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Tóm tắt nội dung chính của từng phần được đánh số trong văn bản. Nội dung phần (3) cho biết sự khác biệt gì về thời gian kể chuyện so với hai phần trước? Câu văn nào nói lên điều đó?
Phương pháp giải:
Đọc và tóm tắt nội dung chính
Lời giải chi tiết:
- Tóm tắt nội dung chính của từng phần:
+ Phần 1: An-tư-nai được thầy Đuy-sen giúp đỡ, cho ở cùng mình ở nhà bác Ka-tai-bai để tránh người thím độc ác muốn gả cô đi. Suốt đêm đó, An-tư-nai cứ bồn chồn, lo lắng không sao ngủ được. Để giúp cô thoát khỏi những suy nghĩ đen tối, thầy Đuy-sen đã đưa cô đi trồng hai cây và gieo trong cô những hi vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn.
+ Phần 2: Thím của An-tư-mai dẫn người đến trường học, muốn cướp cô đi. Thầy Đuy-sen đã chống trả lại bọn người kia và bị đánh trọng thương, An-tư-mai thì bị bắt đi. Cô bé tìm cách trốn đi và thầy Đuy-sen đã xuất hiện cùng hai viên cảnh sát. An-tư-nai được cứu ra. Thầy Đuy-sen lại một lần nữa khuyên bảo cô quên đi những ngày đen tối, xây dựng cho An-tư-nai hi vọng mới. Dưới làn nước suối, An-tư-mai muốn gột sạch bản thân, một lần nữa tràn đầy hi vọng vào cuộc sống.
+ Phần 3: Những suy nghĩ, tình cảm, lòng biết ơn của An-tư-mai đối với thầy Đuy-sen.
- Nội dung phần 3 cho biết sự khác biệt về thời gian so với các phần khác: thời gian trong phần 3 là tương lai rất xa so với thời điểm sự việc ở phần 1 và phần 2 xảy ra. Thời gian trong nội dung phần 3 là thời gian An-tư-nai đã trưởng thành.
- Tóm tắt nội dung chính của từng phần:
+ Phần 1: An-tư-nai được thầy Đuy-sen giúp đỡ, cho ở cùng mình ở nhà bác Ka-tai-bai để tránh người thím độc ác muốn gả cô đi.
+ Phần 2: Thím của An-tư-mai dẫn người đến trường học, muốn cướp cô đi. Thầy Đuy-sen đã chống trả lại bọn người kia và bị đánh trọng thương, An-tư-mai thì bị bắt đi.
+ Phần 3: Những suy nghĩ, tình cảm, lòng biết ơn của An-tư-mai đối với thầy Đuy-sen.
- Thời gian trong phần 3 là tương lai rất xa so với thời điểm sự việc ở phần 1 và 2 xảy ra.
– Tóm tắt nội dung chính của từng phần được đánh số trong văn bản:
+ Phần (1): Thầy Đuy-sen hứa sẽ bảo vệ An-tư-nai trước âm mưu của người thím, động viên cô lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng khi cùng cô trồng hai cây phong.
+ Phần (3): Những suy nghĩ của An-tư-nai về con đường mòn mà thầy Đuy-sen đã đưa cô đi hôm ấy.
– Nội dung phần (3) là những suy nghĩ của nhân vật An-tư-nai ở hiện tại nên có sự khác biệt về thời gian kể chuyện so với hai phần trước – vốn là hồi ức của nhân vật. Câu văn nói lên điều đó: “Giá giờ đây tôi có thể tìm lại con đường mòn mà thầy Đuy-sen đã đưa tôi xuống núi, tôi sẽ phục xuống đất và hôn lên những vết chân của thầy tôi.”, “Thiêng liêng và diễm phúc thay ngày hôm ấy, con đường mòn ấy, con đường đã dẫn tôi trở về với cuộc sống, với niềm tin mới vào bản thân mình, với những niềm hi vọng mới, với ánh sáng.... Cảm ơn ánh sáng Mặt Trời, cảm ơn mảnh đất ngày hôm ấy...”.
CH cuối bài 3
Câu 3 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Hãy dẫn ra một số câu văn thể hiện suy nghĩ, tình cảm và mong ước của thầy Đuy-sen khi trồng hai cây phong nhỏ.
Phương pháp giải:
Đọc và chỉ ra các câu văn thể hiện suy nghĩ, tình cảm và mong ước của thầy Đuy-sen khi trồng hai cây phong nhỏ.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Một số câu văn thể hiện suy nghĩ, tình cảm và mong ước của thầy Đuy-sen khi trồng hai cây phong nhỏ:
"Rồi em sẽ thấy hai cây phong của chúng ta đẹp đến nhường nào! Chúng nó sẽ đứng trên ngọn đồi này, sát cánh nhau như hai anh em. Và mọi người sẽ luôn luôn nhìn thấy chúng và những người lành sẽ thấy lòng vui lên khi nhìn thấy chúng. Đến khi ấy cả cuộc sống cũng sẽ khác, An-tư-nai ạ. Tất cả những gì đẹp nhất đều hãy còn ở phía trước..."
– Khơi gợi niềm lạc quan: “Và mọi người sẽ luôn luôn nhìn thấy chúng và những người lành sẽ thấy lòng vui lên khi nhìn thấy chúng.”.
– Mong ước về tương lai tươi sáng: “Tất cả những gì đẹp nhất đều hãy còn ở phía trước...”.
– Thể hiện tình thương yêu sâu sắc, niềm tin mãnh liệt dành cho học trò: “Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em cũng sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt. Em có một tâm hồn đẹp và một đầu óc ham học. Thầy bao giờ cũng nghĩ rằng em sẽ trở thành người thông thái. Thầy tin như vậy, em ạ, số phận em nhất định sẽ như thế. Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này. An-tư-nai ạ, ta sẽ tự tay trồng lấy hai cây phong này. Và mong sao em sẽ tìm thấy hạnh phúc trong học tập, ngôi sao nhỏ trong sáng của thầy ạ...”.
CH cuối bài 4
Câu 4 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Phân tích nhân vật thầy Đuy-sen trong đoạn trích Người thầy đầu tiên .
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản và phân tích nhân vật thầy Đuy-sen
Lời giải chi tiết:
Bài tham khảo:
Cách 1
Hình ảnh một người thầy tuyệt đẹp và đáng kính là cảm nhận sâu sắc nhất của mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn này. Khi đến vùng núi quê hương của cô bé An-tư-nai. Thầy Đuy-sen còn trẻ lắm. Học vấn của thầy lúc đó chưa cao, nhưng trái tim thầy dạt dào tình nhân ái và sôi sục nhiệt tình cách mạng. Một mình thầy lao động hằng tháng trời, phạt cỏ, trát lại vách, sửa cánh cửa, quét dọn cái sân..., biến cái chuồng ngựa của phú nông hoang phế đã lâu ngày thành một cái trường khiêm tốn nằm bên hẻm núi, cạnh con đường vào cái làng nhỏ của người Kir-ghi-di, vùng Trung Á nghèo nàn lạc hậu
Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đấy cũng hay” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy Đuy-sen “mỉm cười, niềm nở” quệt mồ hôi trên mặt, rồi ôn tồn hỏi: “Đi đâu về thế, các em gái”. Trước các “vị khách” nhỏ tuổi, thầy hiền hậu nói: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi...?”
Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại, cử chỉ của thầy rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, đã thấu rõ cái khao khát muốn được học hành của các em: “các em chả sẽ học tập ở đây là gì?” Thầy “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông..., thầy báo tin vui trường học đã làm xong “có thể bắt đầu học được rồi”. Thầy mời chào hay khích lệ? Thầy nói với các em nhỏ người dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tất cả tình thương mênh mông: “Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”
Thầy Đuy-sen quả là có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Chỉ sau một vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng, thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi dậy trong lòng các em nhỏ người miền núi niềm khao khát được đi học.
Với An-tư-nai, thầy nhìn thấu tâm can em, cảm thông cảnh ngộ mồ côi của em, thầy an ủi và khen em một cách chân tình: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Câu nói ấy cùng với nụ cười hiền hậu của Đuy-sen đã khiến cho cô gái dân tộc thiểu số bé nhỏ, bất hạnh “thấy lòng ấm hẳn lại”.
Đuy-sen là người thầy đầu tiên, người thầy khai tâm khai sáng cho An-tư- nai. Thầy hiền hậu, thầy yêu thương tuổi thơ. Thầy đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng và khát vọng đi học. Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ. Con đường tuổi trẻ là con đường học hành. Trên con đường đầy nắng đẹp ấy, anh chị và mỗi chúng ta sẽ được dìu dắt qua nhiều thầy, cô giáo. Cũng như An-tư-nai, trong tâm hồn mỗi chúng ta luôn luôn chói ngời những người thầy, những Đuy-sen cao đẹp.
- Hình ảnh một người thầy tuyệt đẹp và đáng kính là cảm nhận sâu sắc nhất của mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn này.
- Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại, cử chỉ của thầy rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động tâm hồn tuổi thơ.
- Thầy Đuy-sen quả là có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm.
- Đuy-sen là người thầy đầu tiên, người thầy khai tâm khai sáng cho An-tư- nai.
Nhân vật thầy Đuy-sen trong đoạn trích là một người thầy:
– Yêu thương, quan tâm học trò (không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn dạy học trò cách làm người, giúp An-ti-nai tạo lập nhân cách của mình).
– Có niềm tin vào tương lai tươi sáng của học trò (tin tưởng mạnh mẽ vào năng lực của An-tư-nai, gieo vào lòng cô bé niềm tin, nghị lực trong cuộc sống).
CH cuối bài 5
Câu 5 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Thông qua cuộc đời nhân vật An-tư-nai, có thể nêu lên nhận xét gì về số phận của những người phụ nữ được nói tới trong câu chuyện?
Phương pháp giải:
Trả lời theo ý hiểu
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thông qua cuộc đời nhân vật An-tư-nai, có thể thấy số phận của những người phụ nữ được nói tới trong câu chuyện rất bất hạnh. Họ bị buộc phải nghe theo sắp xếp của người lớn mà không thể phản kháng. Họ bị buộc phải kết hôn từ rất sớm.
Số phận của những người phụ nữ được nói tới trong câu chuyện rất bất hạnh.
Thông qua cuộc đời nhân vật An-tư-nai, có thể rút ra một số nhận xét sau về số phận của những người phụ nữ trong câu chuyện:
- Chịu nhiều thiệt thòi.
- Bị đói nghèo, lạc hậu đoạ đày, mất hết quyền làm người.
- …
CH cuối bài 6
Câu 6 (trang 26, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Chi tiết hoặc hình ảnh nào trong văn bản đã để lại trong em những ấn tượng sâu đậm? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng) ghi lại ấn tượng ấy.
Phương pháp giải:
Viết đoạn văn
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Văn bản “Người thầy đầu tiên” của tác giả Ai-ma-tốp đã để lại cho em nhiều ấn tượng. Chi tiết mà em ấn tượng nhất chính là khi thầy Đuy-sen sẵn sàng đứng ra bảo vệ cho học trò của mình. Điều này không chỉ cho thấy tình cảm chân quý mà thầy dành cho các nữ sinh mà nó còn thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của thầy. Trước hoàn cảnh xã hội đất nước Cư-rơ-gư-xtan lúc bấy giờ, phụ nữ không được coi trọng và việc để phụ nữ đi học lại càng không. Thầy Đuy-sen đã dũng cảm chống lại những suy nghĩ lạc hậu đó để bảo vệ học trò của mình. Chính sự dũng cảm ấy đã cứu rỗi cả một cuộc đời của cô bé An-tư-nai, nhờ có sự giúp đỡ của thầy mà sau này An-tư-nai đã trở thành một người có ích cho xã hội, khẳng định được vị thế của người phụ nữ.
Chi tiết mà em ấn tượng nhất trong đoạn trích Người thầy đầu tiên, là chi tiết về dòng tâm sự của nhân vật An-tư-nai khi đã trưởng thành. Cô bé ngày nào giờ đây đã là một người thành công, nhưng luôn khắc khoải về người thầy giáo đầu tiên của mình. Chi tiết ấy đã giúp chúng ta thấy được sự biết ơn và kính trọng sâu sắc của nhân vật An-tư-nai đối với thầy giáo của mình. Dù thời gian đã trôi qua rất lâu, nhưng cô vẫn luôn khắc ghi trong trái tim rằng, tất cả những con đường thành công mà cô đi đều bắt nguồn từ con đường mòn nhỏ bé đó. Và mọi thành công của cô, hạnh phúc của cô, ánh sáng của cô đều là nhờ người thầy vĩ đại ấy đem đến. Với A-tư-nai, thầy Đuy-sen không chỉ là một người thầy giáo, mà còn là một người cha, một vị chúa thực sự đã sưởi ấm và cứu rỗi cuộc đời cô.