Soạn bài Tác gia Nguyễn Du SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hòa nhập vào đời sống sinh hoạt văn hóa của dân tộc Việt Nam. Bạn hãy nêu một trường hợp sử dụng hình thức đố Kiều, lấy Kiều hoặc vịnh Kiều.
Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 6, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hòa nhập vào đời sống sinh hoạt văn hóa của dân tộc Việt Nam. Bạn hãy nêu một trường hợp sử dụng hình thức đố Kiều, lấy Kiều hoặc vịnh Kiều.
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức thực tế của bản thân để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thật vậy, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thâm nhập sâu rộng vào đời sống của nhân dân ta từ đời sống sinh hoạt hàng ngày mà nó còn trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tác văn học, phim điện ảnh, chèo, cải lương…
Ví dụ như “bói Kiều” có một hình thức phổ biến sau: khi mọi người muốn hỏi về một chuyện gì, họ sẽ ăn mặc gọn gàng, tay cầm Truyện Kiều, nhìn nén hương cháy nghi ngút mà khấn “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều con tên là… xin cho con biết chuyện X của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang (phải hoặc trái), dòng thứ… (tính từ dưới lên hoặc từ trên xuống)”.
Vịnh Kiều có thể kể đến như :
“Có tiền việc trước mà xong nhỉ,
Thời trước làm quan cũng thế a?”
Hay đố Kiều như:
“Vấn:
-Truyện Kiều anh thuộc đã thông,
Đố anh kể được một dòng chữ Nho?
Đáp:
-Hồ công quyết chí thừa cơ,
Lễ tiền binh hậu, khắc cờ lập công”
Ví dụ như “bói Kiều” có một hình thức phổ biến sau: khi mọi người muốn hỏi về một chuyện gì, họ sẽ ăn mặc gọn gàng, tay cầm Truyện Kiều, nhìn nén hương cháy nghi ngút mà khấn “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều con tên là… xin cho con biết chuyện X của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang (phải hoặc trái), dòng thứ… (tính từ dưới lên hoặc từ trên xuống)”.
Ví dụ về hình thức đố Kiều như:
Đố:
“Truyện Kiều” anh đã thuộc làu
Đố anh kể được một câu năm người?
Giải:
Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu!
- Bài Vịnh Kiều (Đỗ Như Tâm):
“Sắc tài có một đỉnh đình đinh,
Khắp cả giang sơn tiếng nổi phình.
Duyên chị mà em theo lẽo đẽo,
Nợ chàng rồi thiếp sạch sành sanh.
Ra đi đầu đội muôn phần hiếu,
Trở lại vai mang một chéo tình.
Mười mấy năm trời nhơ rửa sạch,
Khúc đờn nhàn khảy tính tình tinh.”
- “Lẩy Kiều” có thể hiểu là lựa chọn những câu thích hợp trong số 3.254 câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi nối lại sao cho có vần và có nghĩa theo dụng ý của riêng mình, để tạo nên một bài viết về một chuyện nào đó . Ví dụ trong bài “nói chuyện tại cuộc mít tinh chào mừng Tổng thống Xu-các-nô” của nước Cộng hòa In-đô-nê-xi-a vào năm 1959. Người nói:
“Nước xa mà lòng không xa
Thật là bầu bạn, thật là anh em.”
Trong khi đọc 1
Câu 1 (trang 7, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Truyền thống gia đình, dòng họ và bối cảnh thời đại Nguyễn Du.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần I để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
- Truyền thống gia đình, dòng họ: ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học nhiều đời bới cha từng đỗ tiến sĩ và làm quan trong triều. Khi cha mẹ qua đời, ông được nuôi dưỡng bởi người anh trai cũng từng làm quan.
- Bối cảnh thời đại: cuộc đời ông chứng kiến sự thăng trầm của lịch sử dân tộc. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, gia đình ông rơi vào cảnh tha hương. Khi Tây Sơn sụp đổ, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn và đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
- Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học nhiều đời bới cha từng đỗ tiến sĩ và làm quan trong triều. Khi cha mẹ qua đời, ông được nuôi dưỡng bởi người anh trai cũng từng làm quan.
- Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, gia đình ông rơi vào cảnh tha hương. Khi Tây Sơn sụp đổ, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn và đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
Gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học: cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng; anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản từng làm quan to dưới triều Lê - Trịnh. Nhưng sớm mồ côi cha mẹ (mồ côi cha từ năm 9 tuổi, mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi). Hoàn cảnh gia đình cũng có tác động đến sáng tác của Nguyễn Du.
Thời đại:
Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn tranh giành quyền lực
Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, xã hội rối ren, cuộc sống của nhân dân cơ cực, lầm tham.
Nghĩa quân Tây Sơn đã đánh đổ tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh sang xâm lược.
Trong khi đọc 2
Câu 2 (trang 7, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Những điểm mốc quan trọng trong cuộc đời Nguyễn Du.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần I.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Những điểm mốc quan trọng trong cuộc đời của Nguyễn Du:
- Thuở nhỏ sống trong nhung lụa, cha mẹ mất thì ở với anh trai
- Sau đó Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình ông bị rơi vào cảnh tha hương
- Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn và có đi sứ sang Trung Quốc.
- Thuở nhỏ sống trong nhung lụa, cha mẹ mất thì ở với anh trai
- Sau đó Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình ông bị rơi vào cảnh tha hương
- Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn và có đi sứ sang Trung Quốc.
- Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa.
- Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
- Năm 1803 : đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
- Năm 1805 : thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
- Năm 1807 : làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
- Năm 1809 : làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- Năm 1813 : thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
- Năm 1820, Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm Chánh sứ nhưng chưa kịp đi thì ông lâm bệnh nặng và mất.
Trong khi đọc 3
Câu 3 (trang 7, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chú ý hoàn cảnh sáng tác, nội dung cơ bản và đặc sắc về nghệ thuật của từng tập thơ.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần II.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
* Thanh Hiên thi tập
- Hoàn cảnh sáng tác: sáng tác trong những năm tháng bi thương nhất của cuộc đời Nguyễn Du
- Nội dung cơ bản: tập thơ chứa đựng tình yêu quê hương tha thiết của một con người mệnh khổ.
- Đặc sắc nghệ thuật: thơ chữ Hán, sử dụng các điển tích, điển cố.
* Nam Trung tạp ngâm
- Hoàn cảnh sáng tác: ra đời khi ông đã được thăng quan tiến chức, làm việc cho nhà Nguyễn
- Nội dung: qua sự nghèo túng, ốm đau của bản thân ông muốn phê phán thói xấu của đám quan lại.
- Nghệ thuật: cảm hứng trữ tình, giọng điệu bi thiết, buồn thương.
* Bắc hành tạp lục
- Hoàn cảnh ra đời: sáng tác trong thời gian đi sứ Trung Quốc
- Nội dung: niềm cảm thương trăn trở, day dứt trước số phận của con người, đặc biệt là những kẻ tài hoa.
- Nghệ thuật: thơ chữ Hán với các cặp thơ đối xứng.
a. Thanh Hiên thi tập :
- Hoàn cảnh sáng tác: viết vào những năm trước 1802, để nói lên tình cảnh, tâm sự của mình trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc trong thời gian ẩn náu ở quê nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế độ Lê – Trịnh.
- Nội dung: chứa đựng tình cảm quê hương thân thuộc, có khi ốm đau mà chẳng thuốc thang gì, có lúc đói rét phải nhờ cậy vào lòng thương của người khác. Tâm sự của tác giả trong thời kỳ này là một tâm sự buồn rầu, có khi chán nản, uất ức… Thanh Hiên thi tập ghi lại tâm sự của một con người đầy hùng tâm, tráng chí nhưng gặp nhiều cảnh ngộ không như ý nên phải ôm trong lòng mối u uất không thể giải tỏa. Bao trùm tập thơ là điệp khúc buồn, u uẩn, day dứt khôn nguôi.
- Nghệ thuật: thơ chữ Hán, sử dụng các điển tích, điển cố.
b. Nam trung tạp ngâm :
- Hoàn cảnh sáng tác: gồm những bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng hàm Đông các điện học sĩ ở Huế cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Tập thơ hiện có 40 bài, mở đầu tập là bài Phượng hoàng lộ thượng tảo hành (Trên đường Phượng Hoàng) và cuối tập là bài Đại tác cửu tư quy (Làm thay người đi thú lâu năm mong về).
- Nội dung: nói về sự nghèo túng, ốm đau của mình (Ngẫu đề, Thủy Liên đạo trung tảo hành...) hay nói một cách mỉa mai và bóng gió về thói hay chèn ép của các quan lại (Ngẫu đắc, Điệu khuyển...).
- Nghệ thuật: giọng điệu bi thiết, buồn thƣơng. Còn về phong cách, thơ Nguyễn Du có giọng nhu, khoan thai mà tha thiết lắng sâu và chân thành hết mực, cảm hứng trữ tình và cảm hứng hiện thực đan xen làm nên tính chất vừa thống nhất, vừa phân hóa tƣơng đối trong cảm hứng nghệ thuật nói chung của thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trong đó, cảm hứng trữ tình vẫn chiếm ưu thế hơn cả và tạo thành âm hưởng chủ đạo của hai tập thơ. Đó là thế giới tinh thần đầy u uất, buồn thương và những vận động nội tâm sâu sắc của một con người luôn khao khát sống nhưng thời thế lắm điều bất như ý.
c. Bắc hành tạp lục :
- Hoàn cảnh sáng tác: sáng tác trong thời gian đi sứ Trung Quốc
- Nội dung: là niềm cảm thương trăn trở, day dứt trước số phận con người, đặc biệt là những kẻ tài hoa. Với đề tài hiện thực, Nguyễn Du từ cõi lòng đầy những thất vọng khổ đau của riêng mình đề cập đến những trăn trở trước số phận của cõi người. Xuất hiện trong tập thơ là hiện thực nhân dân cùng khổ, Nguyễn Du đã vẽ nên những bức tranh sông động về tình cảnh những người dân nghèo trên bước đường tha phương.
- Nghệ thuật: thơ chữ Hán, các cặp thơ đối.
Trong khi đọc 4
Câu 4 (trang 9, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Giá trị chung của thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần II của tác phẩm.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thơ chữ của Nguyễn Du phần lớn đều vượt xa những ý thức hệ phong kiến, giáo điều cổ hủ trong xã hội xưa để từ đó khám phá ra một thế giới nội tâm mới của con người. Từ đó ông ca ngợi, trân trọng và tôn vinh vẻ đẹp của cái đẹp trong xã hội xưa dù số phận của nó có khổ đau, bất hạnh.
Thơ chữ của Nguyễn Du phần lớn đều vượt xa những ý thức hệ phong kiến, giáo điều cổ hủ trong xã hội xưa
Từ đó ông ca ngợi, trân trọng và tôn vinh vẻ đẹp của cái đẹp trong xã hội xưa dù số phận của nó có khổ đau, bất hạnh.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn lên khẳng định giá trị tự thân của con người. Thơ ông, nhất là thơ chữ Hán luôn thể hiện sự trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, khát vọng sống, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Với gia tài thơ chữ Hán của mình, Nguyễn Du đã góp phần không nhỏ trong việc làm nên thành tựu của một giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học dân tộc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Trong khi đọc 5
Câu 5 (trang 10, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Lưu ý mối liên hệ của hai văn bản: Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Kim Vân Kiều Truyện (Thanh Tâm Tài Nhân).
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần sáng tác chữ Nôm của tác giả.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp thu đề tài, cốt truyện, bối cảnh từ Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân và viết thành tập Truyện Kiều bằng chữ Nôm, thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ kể về cuộc đời của Thúy Kiều. Đây là kết quả của một sự giao lưu văn hóa, kế thừa tinh hoa của nhân loại của Nguyễn Du.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp thu đề tài, cốt truyện, bối cảnh từ Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân.
Truyện Kiều được viết theo hình thức truyện thơ Nôm, thể lục bát, gồm 3254 câu, kể về cuộc đời mười lăm năm chìm nổi của Thuý Kiều. Sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tiếp thu đề tài, cốt truyện từ Kim Vân Kiểu truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Việc kế thừa cốt truyện của người đi trước là một biểu hiện của hiện tượng giao lưu văn hoá, xuất hiện ở nhiều nền văn học Trung đại trên thế giới.
Trong khi đọc 6
Câu 6 (trang 10, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chú ý nội dung cơ bản của tư tưởng nhân đạo trong Truyện Kiều.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị tư tưởng.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng tư tưởng nhân đạo vô cùng lớn thể hiện qua vẻ đẹp, cách đối nhân xử thế, tấm lòng khoan dung được thể hiện qua một vài nhân vật trong truyện. Đồng thời, bên cạnh đó, ông cũng phê phán xã hội bất công, tàn ác chèn ép con người đến tận cùng của sự khổ đau của lũ buôn người, kiếm tiền trên thân xác của người khác. Và hơn nữa, truyện cũng thể hiện sự đồng cảm, thương xót của tác giả đối với những kiếp người tài hoa bạc mệnh, bị chà đạp, ức hiếp.
Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng tư tưởng nhân đạo vô cùng lớn thể hiện qua vẻ đẹp, cách đối nhân xử thế, tấm lòng khoan dung được thể hiện qua một vài nhân vật trong truyện.
Ông cũng phê phán xã hội bất công, tàn ác chèn ép con người đến tận cùng của sự khổ đau của lũ buôn người, kiếm tiền trên thân xác của người khác.
Truyện cũng thể hiện sự đồng cảm, thương xót của tác giả đối với những kiếp người tài hoa bạc mệnh, bị chà đạp, ức hiếp.
Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo. Tư tưởng đó trước hết được thể hiện quá cảm hứng tôn vinh vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du thuộc số ít tác giả thời trung đại quan tâm, trân trọng con người một cách toàn diện - cả tâm hồn và thể xác.
* Phê phán xã hội bất công, tàn ác, chèn ép con người:
– Lên án xã hội đồng tiền đã chà đạp phẩm giá, hạnh phúc của con người.
Ngòi bút tả thực của Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội phong kiến thối nát, trong đó đồng tiền có thể xoay chuyển tất cả, thao túng con người, dung túng cho cái ác.
* Ca ngợi và trân trọng vẻ đẹp của con người
– Khắc họa sống động vẻ đẹp ngoại hình của chị em Thúy Kiều, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ con người.
– Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn: Thúy Vân thanh cao, đài các, Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà.
– Ca ngợi tài năng của Thúy Kiều: cầm kì thi họa đều tinh thông
* Đồng cảm, xót thương những số phận bất hạnh:
– Xót thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh.
– Thương cho những kiếp người bị chà đạp, bị ức hiếp, bị biến thành món hàng cho người ta mua bán.
Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo. Tư tưởng đó trước hết được thể hiện quá cảm hứng tôn vinh vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du thuộc số ít tác giả thời trung đại quan tâm, trân trọng con người một cách toàn diện - cả tâm hồn và thể xác.
* Phê phán xã hội bất công, tàn ác, chèn ép con người – Vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn quan lại, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm tiền trên thân xác những người con gái. – Lên án xã hội đồng tiền đã chà đạp phẩm giá, hạnh phúc của con người. → Ngòi bút tả thực của Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội phong kiến thối nát, trong đó đồng tiền có thể xoay chuyển tất cả, thao túng con người, dung túng cho cái ác.
– Khắc họa sống động vẻ đẹp ngoại hình của chị em Thúy Kiều, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ con người. – Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn: Thúy Vân thanh cao, đài các, Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà. – Ca ngợi tài năng của Thúy Kiều: cầm kì thi họa đều tinh thông
* Đồng cảm, xót thương những số phận bất hạnh: – Xót thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh – Thương cho những kiếp người bị chà đạp, bị ức hiếp, bị biến thành món hàng cho người ta mua bán.
Trong khi đọc 7
Câu 7 (trang 11, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Khát vọng tình yêu và khát vọng sống tự do.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị tư tưởng để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Bởi sự yêu thương, trân trọng những giá trị cốt lõi của con người, ông đã thể hiện sự đồng cảm, thương mến và ca ngợi của mình lên trang giấy phẳng. Ca ngợi vẻ đẹp từ tâm hồn của con người, luôn kiếm tìm hạnh phúc, tự do như Thúy Kiều, hay sự hy sinh vô bờ bến, hy sinh hạnh phúc của mình để giúp chị của Thúy Vân, là tình cảm sâu đậm, trước sau như một của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều… tất cả đều nói lên khát vọng tình yêu, ước muốn một cuộc sống tự do, hạnh phúc của con người.
Ca ngợi vẻ đẹp từ tâm hồn của con người, luôn kiếm tìm hạnh phúc, tự do như Thúy Kiều, hay sự hy sinh vô bờ bến, hy sinh hạnh phúc của mình để giúp chị của Thúy Vân, là tình cảm sâu đậm, trước sau như một của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều…
Yêu thương, trân trọng con người nên Nguyễn Du đồng cảm, đồng tình với những khát vọng chính đáng, vượt ra ngoài một số khuôn phép phản nhân văn của tư tưởng phong kiến.
Yêu thương, trân trọng con người nên Nguyễn Du đồng cảm, đồng tình với những khát vọng chính đáng, vượt ra ngoài một số khuôn phép phản nhân văn của tư tưởng phong kiến. Đó là khát vọng tình yêu tự do được khẳng định qua mối tình Kim - Kiều trong sáng, thuỷ chung, cao thượng, Ngòi bút đậm chất trữ tình của Nguyễn Du đã mở ra cả một thế giới phong phú, bí ẩn của trái tim đang yêu với đủ mọi cung bậc cảm xúc; mang đến cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về tình yêu. Nguyễn Du vẫn hết mực trân trọng tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải. Đó còn là khát vọng sống tự do được Nguyễn Du thể hiện qua nhân vật Từ Hải, giấc mơ công lí được chuyền tải ua phiên tòa báo ân áo oán.
Trong khi đọc 8
Câu 8 (trang 11, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Mô hình cốt truyện Truyện Kiều.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị nghệ thuật.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Cốt truyện được chia ra thành 3 ý chính đó là Gặp gỡ - Chia ly – Đoàn tụ.
Gặp gỡ - Chia ly – Đoàn tụ.
Cốt truyện của Truyện Kiều được xây dựng theo mô hình chung của truyện thơ Nôm với ba phần: Gặp gỡ - Chia ly - Đoàn tụ.Trong mỗi phần, Nguyễn Du đều có những, sáng tạo độc đáo.
Cốt truyện của Truyện Kiều được xây dựng theo mô hình chung của truyện thơ Nôm với ba phần: Gặp gỡ - Chia ly - Đoàn tụ.Trong mỗi phần, Nguyễn Du đều có những, sáng tạo độc đáo. Chẳng hạn, đoạn kết Truyện Kiều không viên mãn như các truyện thơ Nôm khác vì sau cuộc đoàn tụ, các nhân vật chính đều không có hạnh phúc trọn vẹn. Tạo đựng một kết thúc như thế, Nguyễn Du đã tôn trọng logic của hiện thực, của tính cách nhân vật.
Trong khi đọc 9
Câu 9 (trang 12, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Những thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thành công lớn nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du về xây dựng nhân vật chính là tác giả đã xây dựng một cách hài hòa sự thay đổi của nhiều nhân vật: Kim Trọng, Thúy Vân, Thúc Sinh, Hoạn Thư… Bởi trải qua những thăng trầm, sóng gió, họ nhận lại cho mình những nhận thức mới, diện mạo mới và tính cách mới để từ đó thay đổi, hoàn thiện bản thân để thích nghi với hoàn cảnh của riêng mình.
Thành công lớn nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du về xây dựng nhân vật chính là tác giả đã xây dựng một cách hài hòa sự thay đổi của nhiều nhân vật: Kim Trọng, Thúy Vân, Thúc Sinh, Hoạn Thư…
Các nhân vật trong Truyện Kiều được khắc hoạ một cách chân thực, sinh động, từ ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động,... đến diễn biến nội tâm, Nguyễn Du đã cá thể hoá ngoại hình của nhiều nhân vật sử dụng rất thành công các chi tiết bề ngoài để khắc hoa tính cách (Thuý Kiểu, Thuý Vân, Tú Bà, Mã Giám Sinh,..). Nhiều nhân vật trong Truyện Kiểu có giọng điệu và vốn ngôn ngữ riêng, phản ánh chân thực nguồn gốc, lai lịch, tính cách và diễn biến tâm trạng, Nhiều đoạn ngôn ngữ đối thoại có khả năng bộc lộ những biển động tinh tế, phức tạp trong tâm hồn nhân vật.
Nguyễn Du gần như giữ nguyên hệ thống nhân vật trong Kim Vân Kiều truyện. Song tính cách của hầu hết các nhân vật đều được thay đổi, phù hợp với chủ đề mới, với bản sắc băn hóa và tâm hồn dân tộc.
Sự biển đổi của nhân vật trung tâm tất nhiên đẫn đến sự đổi thay của nhiều nhân vật khác: Kim Trọng, Thúy Vân, Thúc Sinh, Hoạn Thư,... Họ đều hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Du với những diện mạo mới, tính cách mới. Trong Kim Vân Kiều truyện, các nhân vật này ít có đời sống nội Lâm và gắn như không có bi kịch nhưng ở Truyện Kiều, mỗi người đều có nỗi đau riêng.
Các nhân vật trong Truyện Kiểu được khắc hoạ một cách chân thực, sinh động, từ ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động,... đến diễn biến nội tâm, Nguyễn Du đã cá thể hoá ngoại hình của nhiều nhân vật sử dụng rất thành công các chi tiết bề ngoài để khắc hoa tính cách (Thuý Kiểu, Thuý Vân, Tú Bà, Mã Giám Sinh,..). Nhiều nhân vật trong Truyện Kiểu có giọng điệu và vốn ngôn ngữ riêng, phản ánh chân thực nguồn gốc, lai lịch, tính cách và diễn biến tâm trạng, Nhiều đoạn ngôn ngữ đối thoại có khả năng bộc lộ những biển động tinh tế, phức tạp trong tâm hồn nhân vật.
Trong khi đọc 10
Câu 10 (trang 12, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Khám phá thế giới nội tâm nhân vật.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Nguyễn Du đã dùng nhiều phương tiện để khám phá thế giới nội tâm của nhân vật như qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, độc thoại và đối thoại… Qua đó làm đa dạng cách thức thể hiện tình cảm, nội tâm của từng nhân vật, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt được về tính cách, nhận thức của từng nhân vật.
Nguyễn Du đã dùng nhiều phương tiện để khám phá thế giới nội tâm của nhân vật như qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, độc thoại và đối thoại…
Qua đó làm đa dạng cách thức thể hiện tình cảm, nội tâm của từng nhân vật
Thế giới nội tâm nhân vật được Nguyễn Du khám phá, thể hiện bằng nhiều phương tiện cử chỉ, hành động, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, lời nửa trực tiếp, "ngôn ngữ" thiên nhiên trong đó, hình tượng thiên nhiên chiếm giữ vị trí quan trọng.
Thế giới nội tâm nhân vật được Nguyễn Du khám phá, thể hiện bằng nhiều phương tiện cử chỉ, hành động, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, lời nửa trực tiếp, "ngôn ngữ" thiên nhiên trong đó, hình tượng thiên nhiên chiếm giữ vị trí quan trọng. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tác giả đã tập trung ngòi bút của mình vào nhân vật chính là Thuý Kiều phục vụ cho việc biểu hiện tình cảm nhân đạo cao cả của ông đối với nàng Kiều. Ngoài nhân vật chính, ông lại xây dựng được hàng loạt nhân vật có cá tính và đã trở thành nhân vật điển Hình trong văn học: Kim Trọng,Từ Hải, Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh… Ngay cả những nhân vật tưởng như rất phụ chỉ được nêu ra trong một số câu thơ, Nguyễn Du cũng để lại cho người đọc những Hình ảnh khó quên qua những màn, những cuộc hội thoại trong Tác phẩm. Chúng ta có thể tìm trong Tác phẩm của Nguyễn Du rất nhiều hình thức hội thoại: đơn thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại, đối thoại giữa người âm và người dương, đối thoại trực diện và đối thoại gián tiếp…
Có thể nói, bằng cách sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp trong độc thoại nội tâm của nhân vật, tác giả như muốn hòa mình vào đó để tự nhiên bày tỏ quan niệm, suy nghĩ, cách đánh giá của mình một cách khách quan. Nội dung và ngữ điệu hoàn toàn là của nhân vật, nhưng chủ thể lời nói là của người kể. đó chẳng phải là một nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện quan niệm của tác giả trong tác phẩm đó
Trong khi đọc 11
Câu 11 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Ngôn ngữ và thể thơ lục bát.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Ngôn ngữ được sử dụng trong Truyện Kiều hết sức độc đáo với kho báu từ vừng dồi dào, phong phú, đa dạng: nhà thơ đã phản ánh một cách chân thực, dễ hiểu các yếu tố thuộc về nội tâm của từng nhân vật nhưng vẫn thể hiện được sự tài hoa, khéo léo trong việc sử dụng ngôn từ của mình.
Thể thơ của dân tộc – thể thơ lục bát được tác giả sử dụng hết sức tài tình. Thơ lục bát trong Truyện Kiều có thể nói nó ở một tầm cao khác, mang theo đầy đủ tính nghệ thuật, giản dị mà sâu sắc của nó. Đây chính là một hướng đi riêng thể hiện Truyện Kiều là một tác phẩm mang đậm tính dân tộc Việt Nam.
Ngôn ngữ được sử dụng trong Truyện Kiều hết sức độc đáo với kho báu từ vừng dồi dào, phong phú, đa dạng
Thể thơ của dân tộc – thể thơ lục bát được tác giả sử dụng hết sức tài tình. Thơ lục bát trong Truyện Kiều có thể nói nó ở một tầm cao khác, mang theo đầy đủ tính nghệ thuật, giản dị mà sâu sắc của nó.
Khẳng định vị trí vững chắc và đánh dấu bước phát triển vượt bậc của tiếng Việt trong lịch sử văn học dân tộc, hoàn thiện thể thơ lục bát truyền thống.
Thể thơ lục bát có từ ca dao, tức là xuất hiện từ rất lâu trước đó, song lại chỉ trở thành hoàn mỹ khi có truyện Kiều. Truyện Kiều đã đưa thể thơ lục bát lên một tầm cao mới, với đầy đủ tính nghệ thuật, cái đẹp thiên cổ nhưng vẫn giữ được nét giản gị của nó. Sử dụng thể thơ lục bát để sáng tác tác phẩm, Nguyễn Du đã góp phần phát triển tiếng Việt, ở thời kì này là chữ Nôm, không phụ thuộc vào dòng chữ hán của Trung Quốc, tìm cho mình một hướng đi riêng nhưng đậm tính dân tộc.
Tiếng Việt trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tạo nên một thế giới “chữ nghĩa”, “thế giới nghệ thuật” độc đáo. Nhà văn có một “kho báu” từ vựng dồi dào, phong phú, đa dạng, xứng đáng là những khối cẩm thạch xây nên tòa lâu đài chữ nghĩa Truyện Kiều. Điều đó đã khẳng định nghệ thuật ngôn từ của truyện Kiều. Trước hết, Nguyễn Du tôn vinh cái giản dị nhưng chân thành của tiếng Việt. Nhà thơ sử dụng những từ ngữ dễ hiểu nhất, gần gũi với đời sống nhân dân nhất để viết nên những trang thơ của mình. Ông đề cao ngôn từ của người dân lao động, mà vẫn tô điểm cho nó những nét nghệ thuật đặc sắc. Với Truyện Kiều, thế giới biết hơn về một nước Việt nhân văn, biết hơn về một tiếng Việt lung linh, giàu sắc điệu, có thể diễn tả hết mọi cung bậc tình người và khả năng thu nhận, thuần hóa các thứ tiếng khác để tự làm giàu cho mình. Nguyễn Du là người mạnh bạo và thành công nhất trong việc mở cửa cho ngôn ngữ bình dân bước vào, không chỉ bước vào mà còn làm chủ lâu đài văn học trước đây vốn chỉ có ngôn ngữ kinh sách, đầy tính tượng trưng, ước lệ. guyễn Du sử dụng tiếng Việt rất sáng tạo, Nguyễn Du là một nhà “thuần hóa” điển cố, thuần hóa chữ Hán một cách thiên tài. Ông đã làm cho tiếng Việt có khả năng không chỉ đạt độ hàm súc ngang với chữ Hán mà còn có sự biểu cảm cao hơn, ít nhất trong cảm thụ của người Việt. Nguyễn Du lựa chọn những từ đã được Việt hóa và tiếp tục sáng tạo nên ngôn ngữ bình dân gần lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày. Vì thế, những từ: Hoa, Xuân, lan, Thu, cúc, tâm, tài, mệnh, đàn bà... đã đi vào đời sống tự nhiên nên dễ được tiếp nhận. Nhà thơ vẫn giữ những điển tích, điển cố trong tác phẩm, song không gây khó hiểu cho người đọc. Ngôn từ bình dân chính là nét đẹp nhất trong truyện Kiều.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Lập niên biểu Nguyễn Du và nêu nhận xét về cuộc đời, con người ông.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần I.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Mốc thời gian |
Sự kiện |
Khi còn nhỏ |
Ông có cuộc sống sung túc bởi cha làm quan trong triều. |
Bố mẹ mất |
Sống cùng anh Nguyễn Khản, cuộc sống vẫn sung túc ấm lo |
1784 |
Kiêu binh nổi loạn phá nát dinh cơ của Nguyễn Khản ở kinh thành. |
1788 |
Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình ông bước vào cảnh tha hương, bế tắc. |
Nhà Nguyễn ra đời |
Ông ra làm quan cho nhà Nguyễn và được cử đi sứ Trung Quốc |
1820 |
Ông qua đời vì bệnh nặng. |
→ Như vậy, cuộc đời của Nguyễn Du đều trải qua những lúc buồn vui, sung sướng, những lúc đau ốm, bất hạnh… ông đã đều được nếm trải cả vị đắng và quả ngọt của đời. Đó chính là lý do lớn nhất khiến ông thấu hiểu rõ cuộc đời, lòng người và nuôi dưỡng nên trong ông một tâm hồn đa sầu, đa cảm, chứa đựng những tinh hoa của dân tộc.
Mốc thời gian |
Sự kiện |
Khi còn nhỏ |
Ông có cuộc sống sung túc bởi cha làm quan trong triều. |
Bố mẹ mất |
Sống cùng anh Nguyễn Khản, cuộc sống vẫn sung túc ấm lo |
1784 |
Kiêu binh nổi loạn phá nát dinh cơ của Nguyễn Khản ở kinh thành. |
1788 |
Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình ông bước vào cảnh tha hương, bế tắc. |
Nhà Nguyễn ra đời |
Ông ra làm quan cho nhà Nguyễn và được cử đi sứ Trung Quốc |
1820 |
Ông qua đời vì bệnh nặng. |
→ Ông thấu hiểu rõ cuộc đời, lòng người và nuôi dưỡng nên trong ông một tâm hồn đa sầu, đa cảm, chứa đựng những tinh hoa của dân tộc.
Thời gian |
Sự kiện |
1765 |
Sinh ra tại Thăng Long |
1775 |
Nguyễn Du mồ côi cha |
1778 |
mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. |
1783 |
Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) và được tập ấm nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên |
1789 - 1796 |
Nguyễn Du phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, rồi về ở ẩn tại quê nội ở Hà Tĩnh từ năm 1796 - 1802. |
1802 |
Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn, nhậm chức Tri huyện Phù Dung |
1805 - 1809 |
ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ. |
1809 |
Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. |
1813 |
ông được thăng Cần Chánh điện học sinh và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc. |
1820 |
Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường đã mất vào ngày 10 tháng 8 năm 1820. |
1965 |
Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới. |
Nhận xét: Cuộc đời của Nguyễn Du trải qua nhiều biến cố gắn với bối cảnh thời đại. Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
- Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Năm 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha.
- Năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
- Trong khoảng thời gian này, ông đã có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến - những điều đó đã để lại dấu ấn trong sáng tác của ông sau này.
- Từ năm 1789 - 1796, Nguyễn Du phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, rồi về ở ẩn tại quê nội ở Hà Tĩnh từ năm 1796 - 1802.
- Năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn, nhậm chức Tri huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi thành Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội).
- Từ năm 1805 - 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ.
- Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- Đến khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du được tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa mà từ nhỏ đã quen thuộc.
- Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường đã mất vào ngày 10 tháng 8 năm 1820.
- Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới.
→ Nhận xét: Cuộc đời của Nguyễn Du trải qua nhiều biến cố gắn với bối cảnh thời đại. Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :
Bắc hành tạp lục được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Nội dung chính của tập thơ là gì?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần II để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
- Hoàn cảnh ra đời: sáng tác trong thời gian đi sứ Trung Quốc
- Nội dung: niềm cảm thương trăn trở, day dứt trước số phận của con người, đặc biệt là những kẻ tài hoa nhưng mệnh bạc.
- Nghệ thuật: thơ chữ Hán với các cặp thơ đối xứng.
- Bắc hành tạp lục được sáng tác trong thời gian đi sứ Trung Quốc.
- Nội dung chính: Niềm cảm thương, trăn trở, day dứt trước số phận con người, đặc biệt là thân phận của những kiếp tài hoa.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :
Nêu các giá trị cơ bản của thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần II.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thơ chữ của Nguyễn Du phần lớn đều vượt xa những ý thức hệ phong kiến, giáo điều cổ hủ trong xã hội xưa, ông luôn khám phá ra một thế giới nội tâm mới của con người, nơi mà cái đẹp được đề cao, ca ngợi, cái ác bị phê phán, bài trừ. Từ đó ông ca ngợi, trân trọng và tôn vinh vẻ đẹp của cái đẹp trong xã hội xưa và cảm thông cho số phận bất hạnh của họ.
Thơ chữ của Nguyễn Du phần lớn đều vượt xa những ý thức hệ phong kiến, giáo điều cổ hủ trong xã hội xưa, ông luôn khám phá ra một thế giới nội tâm mới của con người, nơi mà cái đẹp được đề cao, ca ngợi, cái ác bị phê phán, bài trừ.
- Thơ chữ Hán của Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc.
- Ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương người.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :
Tóm tắt cốt truyện Truyện Kiều (khoảng 1-1,5 trang)
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần sáng tác chữ Nôm kết hợp với tìm hiểu bên ngoài.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Truyện lấy bối cảnh năm Gia Tĩnh triều Minh, nhà Vương viên ngoại ở Bắc Kinh có 3 người con với con trai lớn Vương Quan văn hay chữ tốt và 2 người con gái là Thúy Kiều và Thúy Vân xinh đẹp tuyệt trần.
Mùa xuân năm ấy, 3 chị em đi thanh minh tảo mộ. Lúc về, họ gặp và kết bạn với Kim Trọng. Kim Trọng được miêu tả là một chàng trai vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Và chính trong cuộc kỳ ngộ này, Thúy Kiều đã phải lòng Kim Trọng, hai người đã thề nguyền đính ước, trao vật định tình với nhau. Nhưng sau đó, Kim Trọng nhận được thư nhà, chàng phải vội về Liêu Dương để chịu tang chú.
Sau đó, tai họa ập đến, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Cha và em bị bắt và tra tấn dã man. Hơn nữa, chúng còn cho người đến nhà Kiều đập phá nhà của, cướp tài sản nhà Kiều. Trước tình hình đó, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để đút lót quan lại, cứu em và cha. Nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân. Rồi Mã Giám Sinh đưa nàng về Lâm Tri. Kiều biết mình bị đẩy vào lầu xanh nàng biền rút dao ra tự vẫn nhưng không thành. Nàng được Đạm Tiên báo mộng phải đến sông Tiền Đường sau này mới hết kiếp đoạn trường. Tú Bà dỗ dành Kiều ở lại lầu Ngưng Bích, mụ thuê Sở Khanh lừa Kiều đưa nàng đi trốn. Kiều bị Tú Bà giăng bẫy mắc lừa Sở Khanh. Cuối cùng, nàng bị bà ta đánh đập, ép nàng phải sống cuộc đời tủi nhục. Tại lầu xanh, Kiều gặp Thúc Sinh, một khách làng chơi giàu có. Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm lẽ. Hoạn Thư – vợ cả của Thúc Sinh sai người bắt cóc Thúy Kiều đưa về Vô Tích để đánh ghen.
Kiều bỏ trốn, nương tựa cửa chùa Giác Duyên, sau đó lại rơi vào tay Bác Bà, Bạc Hạnh và bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Từ Hải, khách biên đình tìm đến nàng, chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ. Từ Hải có 10 vạn tinh binh, lập nên một triều đình và giúp Kiều báo ân, báo oán.
Hồ Tôn Hiến bày mưu giết chết Từ Hải. Sau đó hắn bắt Kiều hầu rượu, đánh đàn và gả Kiều cho viên thổ quan. Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Giác Duyên đã cứu sống nàng và đưa nàng nương nhờ cửa Phật.
Sau nửa năm về Liêu Dương, Kim Trọng về Bắc Kinh nhưng hay tin nàng gặp nạn. Kim Trọng kết duyên cùng Thúy Vân. Sau này, Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ và được bổ làm quan. Cả gia đình tìm đến sông Tiền Đường lập đàn giải oan cho Kiều. Trong lúc đó, sư Giác Duyên đi qua và cho biết Kiều vẫn còn sống và đang tu hành ở chùa.
Kiều gặp lại gia đình sau 15 năm lưu lạc. Gia đình Kiều có ý để nàng nối lại duyên xưa với Kim Trọng nhưng nàng không đồng ý và nói “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.”
- Phần 1: Gặp gỡ và đính ước
Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều - một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau.
- Phần 2. Gia biến và lưu lạc
Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải - một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu.
- Phần 3. Đoàn tụ
Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Túy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :
Văn bản đã phân tích những nội dung cơ bản nào của tư tưởng nhân đạo trong Truyện Kiều?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần giá trị tư tưởng của tác phẩm.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng tư tưởng nhân đạo vô cùng lớn thể hiện qua vẻ đẹp, cách đối nhân xử thế, tấm lòng khoan dung được thể hiện qua một vài nhân vật trong truyện. Đồng thời, bên cạnh đó, ông cũng phê phán xã hội bất công, tàn ác chèn ép con người đến tận cùng của sự khổ đau của lũ buôn người, kiếm tiền trên thân xác của người khác. Cuối cùng, truyện cũng thể hiện sự đồng cảm, thương xót của tác giả đối với những kiếp người tài hoa bạc mệnh, bị chà đạp, ức hiếp.
Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng tư tưởng nhân đạo vô cùng lớn thể hiện qua vẻ đẹp, cách đối nhân xử thế, tấm lòng khoan dung được thể hiện qua một vài nhân vật trong truyện.
Ông cũng phê phán xã hội bất công, tàn ác chèn ép con người đến tận cùng của sự khổ đau của lũ buôn người, kiếm tiền trên thân xác của người khác.
Truyện cũng thể hiện sự đồng cảm, thương xót của tác giả đối với những kiếp người tài hoa bạc mệnh, bị chà đạp, ức hiếp.
- Tôn vinh vẻ đẹp của con người, đặc biệt là phụ nữ: hình thể và tâm hồn.
- Khẳng định những khát vọng táo bạo, chính đáng, trái ngược với tư tưởng phong kiến.
- Tố cáo, lên án xã hội.
- Tôn vinh vẻ đẹp của con người, đặc biệt là phụ nữ.
- Đồng cảm, đồng tình với những khát vọng chính đáng, vượt ra ngoài một số khuôn phép phản nhân văn của tư tưởng phong kiến.
Sau khi đọc 6
Câu 6 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :
Nguyễn Du đã có những sáng tạo gì trên bình diện tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ phần sáng tác chữ Nôm, chú ý phần Truyện Kiều
Lời giải chi tiết:
Cách 1
- Về cốt truyện: thoát ly khỏi thể loại truyền thống khi nói về truyện, tác giả đã mang đến một làn gió mới cho Truyện Kiều đó là thể thơ lục bát được sử dụng trong toàn bài. Các tình tiết, nội dung hợp tình, hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh và tâm lý của từng nhân vật. Điều đó giúp người đọc dễ dàng hiểu và nắm bắt được tâm lý của các nhân vật trong truyện.
- Về nhân vật: sự đa dạng trong các nhân vật có người xấu, người tốt và đặc biệt là sự thay đổi của nhân vật khi được báo ân, báo oán đã thể hiện rõ sự tài hoa, độc đáo, tin vào sự thay đổi của bản tính con người của tác giả.
- Khi tiếp thu cốt truyện từ “Kim Vân Kiều truyện”, Nguyễn Du đã thay đổi trình tự của một số sự kiện và lược bỏ nhiều chi tiết. Những thay đổi đó đều phù hợp với chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và tính cách các nhân vật mà Nguyễn Du muốn thể hiện. Ví dụ sự kiện: Kim – Kiều gặp gỡ trong ngày hội Đạp thanh; Sự kiện Kiều báo ân báo oán.
- Cốt truyện “Truyện Kiều” được tổ chức theo mô hình chung của truyện thơ Nôm: gặp gỡ - chia li – đoàn tụ. Tuy nhiên, khi sử dụng, Nguyễn Du vẫn có sự sáng tạo. Chẳng hạn, cách Nguyễn Du miêu tả bối cảnh cuộc gặp gỡ và quá trình tương tư, tìm kiếm cơ hội bày tỏ tình yêu – hẹn hò, đính ước, thề nguyền của Kim Trọng, Thúy Kiều. Hoặc đoạn kết của “Truyện Kiều” vừa theo mô hình chung (kết thúc có hậu, Thúy Kiều được đoàn tụ cùng gia đình và người yêu), vừa có sự phá cách (Thúy Kiều và Kim Trọng không có được hạnh phúc trọn vẹn).
Cốt truyện của Truyện Kiều được vay mượn từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện và do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp của nghệ thuật dựng truyện của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyễn Du có những sáng tạo như sau:
- Để điển hình hóa nhân vật, Nguyễn Du đã sắp xếp các chi tiết miêu tả ngoại hình nhân vật của Kim Vân Kiều Truyện vào phần giới thiệu ngay từ đầu, đồng thời, điểm tô, chăm chút bằng những nét mới. Tôi chỉ dẫn ra đây trường hợp của chị em Thúy Kiều, Kim Trọng.
- Một biệt tài khác của Nguyễn Du là tả cảnh ngụ tình. Do tính chất của truyện kể bằng văn, tác giả Thanh Tâm Tài Nhân không dành nhiều câu tả cảnh ngụ tình. Tiêu biểu là đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Kim Vân Kiều Truyện miêu tả: Thúy Kiều đề xong (thơ), thì lòng ngao ngán, con mắt đăm đăm trông ra bên ngoài, thấy những cỏ hoa mơn man, non nước mông mênh, gió cuốn mặt ghềnh, sóng dồn cửa bể, trông xa xa lại những con thuyền xuôi ngược, cánh buồm phất phơ.
Sau khi đọc 7
Câu 7 (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai) :
Dựa vào văn bản, hãy chỉ ra những đóng góp quan trọng của Nguyễn Du đối với nền văn học dân tộc.
Phương pháp giải:
Dựa vào văn bản, rút ra những điều chung nhất.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Những đóng góp quan trọng của Nguyễn Du đối với nền văn học dân tộc là:
- Khẳng định sự đa dạng của nền văn học dân tộc
- Là một minh chứng sống về sự độc đáo của nền văn học nước nhà
- Ông đã mang chữ Nôm, văn học Việt Nam vươn tầm ra thế giới, khẳng định vị thế văn học xưa kia của Việt Nam không hề thua kém bất kỳ nước nào.
- Ông đã góp phần làm phát triển ngôn ngữ của dân tộc và hoàn thiện thể thơ lục bát truyền thống.
- Khẳng định sự đa dạng của nền văn học dân tộc
- Là một minh chứng sống về sự độc đáo của nền văn học nước nhà
- Ông đã mang chữ Nôm, văn học Việt Nam vươn tầm ra thế giới.
- Ông đã góp phần làm phát triển ngôn ngữ của dân tộc và hoàn thiện thể thơ lục bát truyền thống.
* Nội dung:
- Thơ văn Nguyễn Du có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh chân thực cuộc đời cơ cực của ông nói riêng, và xã hội đen tối, bất công nói chung.
- Tác phẩm của Nguyễn Du chứa chan tinh thần nhân đạo - một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, luôn hướng tới đồng cảm, bênh vực, ngợi ca và đòi quyền sống cho con người, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh.
* Nghệ thuật:
- Về thể loại: Nguyễn Du đã đưa hai thể thơ của truyền thống dân tộc đạt đến trình độ điêu luyện và mẫu mực cổ điển. Nguyễn Du đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, với điểm nhìn trần thuật từ bên trong nhân vật, và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc.
- Về ngôn ngữ: Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn, làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên trong sáng, tinh tế và giàu có.
-> Nguyễn Du đã có những đóng góp to lớn, thúc đẩy tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.
Kết nối đọc - viết
Câu hỏi (trang 13, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong Truyện Kiều.
Phương pháp giải:
Dựa vào các tư tưởng nhân đạo của tác phẩm, lựa chọn một ý và triển khai.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Giá trị nhân đạo là một điều ta có thể dễ dàng bắt gặp trong tác phẩm Truyện Kiều. Trong đó, ấn tượng nhất đối với em là giá trị phê phán của tác phẩm. Mỗi con người, nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đều mang theo những mặt xấu, mặt tốt lẫn lộn đan xen. Từ kẻ buôn người như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh cho đến kẻ độc ác như Hoạn Thư… tất cả đều mang trong mình những mặt xấu và đáng chê trách, lên án. Với Nguyễn Du, ông phê phán họ là vậy, nhưng ông vẫn thể hiện lòng khoan dung, sự tin tưởng của mình vào nhân cách con người có thể bị cảm hóa thể hiện qua đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán. Và đó chính là một phát hiện vĩ đại, to lớn khi ông luôn tin tưởng vào nhân phẩm của con người, họ chỉ là lầm đường lạc lối nhưng khi được khai sáng, họ sẽ quay lại với bản chất ban đầu của mình, làm người lương thiện. Đây chính là giá trị nhân đạo em thấy hay và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở chỗ tác giả ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt, trong trắng, tinh khiết, rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Thiên nhiên cũng phải thua, phải nhường sắc đẹp của nàng. Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Chân dung của Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Vân tạo nên sự êm đềm, hòa hợp với xung quanh. Điều đó dự báo cuộc đời nàng sẽ suôn sẻ, hạnh phúc. Phải là người biết yêu quý cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp Nguyễn Du mới có được sự miêu tả như thế. Ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hình thức mà tác giả còn ca ngợi vẻ đẹp về mặt tâm hồn, tài năng. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: “Cung thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả sắc – tài – tình. Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành mất nước. Rõ ràng phải là người có tấm lòng yêu thương mới thấy hết được vẻ đẹp của những con người bất hạnh để mà ca ngợi. Tình cảm xót thương, sự chân trọng về sắc đẹp và tài năng Thúy Kiều giúp ta hiểu được giá trị nhân đạo thể hiện qua các đoạn trích này nói riêng, trong tác phẩm Truyện Kiều nói chung.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết biểu hiện ở tấm lòng thương xót đối với người phụ nữ bất hạnh. Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du giúp người đọc thấy được tấm lòng của ông cho nhân vật Thúy Kiều. Thúy Kiều là người con hiếu thảo. Trước cơn gia biến, nàng quyết định bán mình chuộc cha và em. Bằng bút pháp ước lệ, tác giả làm nổi bật tâm trạng tủi hổ, cảm giác nhục nhã, ê chề của Kiều khi nàng bị coi như một món hàng. Một người con gái tài sắc, đức hạnh như nàng Kiều lại trở thành một món hàng đem ra mua bán. Không những thế,bọn chúng còn “Cò kè bớt một thêm hai”, Nguyễn Du đã cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. Nguyễn Du đã thấu hiểu tâm trạng Kiều. Đó chính là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo sáng ngời trong tác phẩm. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn, lo sợ của nàng Kiều. Phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vaò tay Mã Giám Sinh và Tú Bà. Kiều không muốn tiếp khách làng chơi nên nàng đã tìm đến cái chết nhưng nàng lại được cứu sống. Tú Bà vì sợ Thúy Kiều chết đi thì “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” nên dỗ ngon ngọt và vờ đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích đợi tìm nơi tử tế để gả chồng. Thực chất lầu Ngưng Bích là nơi giam lỏng Thúy Kiều - nơi khóa kín tuổi xuân của nàng. Nơi đây cũng chính là điểm khởi đầu cho quãng đường lưu lạc đầy đau thương, tủi nhục của Kiều.Ngòi bút của Nguyễn Du như nhỏ lệ khi miêu tả canhỷ vật thông qua tâm trạng của Thúy Kiều. Giữa thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn thấy “bốn bề bát ngát xa trông”. Một cảm giác cô dơn, buồn tủi và bẽ bàng xâm chiếm tâm hồn nàng. Nàng xót xa cho thân phận, số kiếp mình: "Bẽ bàng mây sớm đèn khuya / Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng". Phải chăng đó cũng chính là nỗi xót đau của tác giả dành cho những người phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh như Thúy Kiều?
Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở chỗ tác giả ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều bằng những lời tuyệt mĩ. Miêu tả Thúy Vân, ngòi bút của Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng: Vân xem trang trọng khác vời. Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt, trong trắng, tinh khiết, rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Khuôn mặt nàng đẹp như trăng rằm. Nụ cười tươi như hoa. Giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngọc ngà. Làn tóc mềm mại, thướt tha đẹp hơn mây trời. Màu trắng của tuyết vẫn không thể sánh bằng làn da trắng trắng ngần của Thúy Vân. Thiên nhiên cũng phải thua, phải nhường sắc đẹp của nàng. Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Chân dung của Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Vân tạo nên sự êm đềm, hòa hợp với xung quanh. Điều đó dự báo cuộc đời nàng sẽ suôn sẻ, hạnh phúc. Phải là người biết yêu quý cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp Nguyễn Du mới có được sự miêu tả như thế. Ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hình thức mà tác giả còn ca ngợi vẻ đẹp về mặt tâm hồn, tài năng. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật ước lệ: “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu.