Tư tưởng đất nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm — Không quảng cáo

Văn mẫu 12 - Phân tích, cảm nhận, dàn ý và nghị luận lớp 12 hay nhất Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đất nước - N


Tư tưởng đất nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Năm 1971, chiến trường Bình Trị Thiên hừng hực bão lửa của bom đạn, chiến tranh báo hiệu của một mùa hè 1972 đỏ lửa. Trong không khí sôi sục của thời đại đánh Mỹ trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã nung nấu và ra đời.

Đề bài

Tư tưởng đất nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Lời giải chi tiết

Đề tài về đất nước là đề tài quen thuộc. Trước Nguyễn Khoa Điềm, đề tài quê hương đất nước đã được nói rất hay, rất đằm thắm trong những bài thơ nổi tiếng như "Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), "Đất nước" (Nguyễn Đình Thi), "Quê hương"(Giang Nam),... "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của Đất Nước, vế trí tuệ, tâm hồn và ý chí của Nhân Dân đã tạo dựng nên một "Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại" - Có thể nói tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân" đã được thể hiện một cách sâu sắc và độc đáo trong đoạn thơ "Đất Nước" này.

Điều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt đất nước rất gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng không kém phần cao cả. Cả nhà thơ đâu đó nói về Đất Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới quê hương mình, Hoàng Cầm bao lần thốt lên trìu mến : “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê hương ta từ ngày khủng khiếp”. Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong không gian Việt Bắc. Có những câu thơ quan tâm đến nét hoành tráng, kì vĩ của đất nước:

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt

(Tố Hữu)

Hoặc Nguyễn Đình Thi:

Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng giọng tâm tình thủ thỉ:

Khi ta lớn lên….đánh giặc.

Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà mình, dân mình, ta gặp những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà, nhìn những bờ tre và sự yêu thương nhau bằng “gừng cay muối mặn”, thậm chí: “cái cột, cái kèo, hạt gạo…” tất cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị truyền thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu của nó vẫn duy trì đến bây giờ. “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, nghe qua rất vô lí nhưng ngẫm suy thì nó lại nói lên được đặc trưng văn hoá nước Việt có thể nói là văn hoá trầu cau. Nó đã có một câu chuyện cổ tích, là phong tục được vị vua tổ Hùng Vương ban truyền, nó là vật để người ta giao đãi tình cảm… Miếng trầu là biểu tượng đặc trưng nhất của văn hoá trọng nghĩa, trọng tình của người Việt. Có cách nhìn về Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ chung. Hình ảnh “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, câu thơ biết quí công “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là chữ tình sâu thẳm của người Việt. Sau khi trả lời câu hỏi Đất nước có tự bao giờ Nguyễn Khoa Điềm muốn giả quyết câu hỏi thứ hai Đất nước là gì? Bằng cách đưa ra định nghĩa với mẫu câu: “Đất nước là nơi” – tác giả quan tâm đến cái bình dị không gian Đất nước, người đọc rất ngỡ ngàng và cảm thấy rất thi vị khi Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại nói Đất nước là những chuyện thầm kín, riêng tư bài ca Đất nước là của chúng mình.

Đất là nơi… em tắm.

Thành tố âm dương ấy hợp lại đã trở thành:

Đất nước… hò hẹn.

Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và tình tứ:

Đất nước… nhớ thầm.

Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào mê cung huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vô tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra rồi lắp lại mà vẫn chưa hết nỗi đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm cái điều ngộ nghĩnh ấy để cho thoả cái điều mình muốn nói. Càng suy ngẫm đầy trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy khám phá mới mẻ gây hứng thú cho người đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến không gian văn hóa nhưng cũng không quên cái thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài đằng đẵng của cha ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa lí cụ thể những chi tiết rất đời thường bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người Việt Nam.

Những ai đã khuất Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Hai tiếng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng sâu đậm trong văn hoá tâm linh người Việt, đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội nguồn, đối với sức mạnh tinh thần cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc trứng Âu Cơ, là dân tộc là đất nước, nó là dòng họ gia đình, sợi khói nhang trên bàn thờ gia tiên có năng lực đánh thức tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về 4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan Viên rất tự hào với nữhng anh hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.

Hỡi dân tộc tiếng hát 4.000 năm Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? (…) Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.

Riêng Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ muốn nói nhiều hơn về:

Có biết bao người con gái con trai ….. Nhưng họ đã làm ra đất nước.

Vậy là sau khi giải đáp hai câu hỏi: Đất nước bắt nguồn từ đâu? Đất nước là gì? Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước? tương tự như nói về địa danh, địa lí, nhà thơ không ca ngợi cái đẹp, cái trù phú như Hoàng Cầm:

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng…

ở Nguyễn Đình Thi:

Những cánh đồng thơm mát…

Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đế những miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi của chúng rát nôm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều vê cuộc sống cần lao:

Những người vợ nhớ chồng Ông Trang, bà Đen, bà Điểm.

Tiếp theo là những câu thơ có tầm khái quát:

Và ở đâu… núi sông ta.

Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu trực tiếp tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”. Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ, tầm vóc của đất nước. Họ là những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng tâm niệm mà ta thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời riêng của mình. Hàng loại các đại từ họ đã nói lên vai trò của nhân dân. Những người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần : “Họ giữ, họ truyền lửa, họ truyền giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những từ “giữ” và “truyền” rồi “gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã nổi lên hình tượng nhân dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau thời kháng chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước ở tầm vóc quốc tế

Ta vì ta ba chục triệu người Cũng vì ba ngàn triệu trên đời Vui gì hơn làm người lính đi đầu Trong đêm tối ta làm ngọn lửa

(Tố Hữu)

Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói tới. Tuy nhiên các tư tưởng không phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải nghiệm và xúc động thật sự của chính mình. Ông đã đưa vốn trí thức về văn hoá dân gian cộng với suy ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại da diết trữ tình. Đất nước này chính là của nhân dân, trong nhân dân có anh và em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:

Em ơi em…muôn đời.

Rất tự nhiên không hề bị lên gân giả tạo, văn hoá trọng chữ tình sẽ là lối cư xử uống nước nhớ nguồn.

Chưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống Mỹ:

Đất nước của những người con gái con trai Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép Khi xa nhau không hề rơi nước mắt Nước mắt dành cho ngày gặp mặt

(Nam Hà)

Đó là đất nước của những đoàn quân: Quân đến, quân đi cỏ tranh ùa giá rét Dãy Trường Sơn trùng điệp những sư đoàn

(Bằng Việt)

Và :

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu Nghe nặng nỗi đau của mẹ Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ

(Tạ Hữu Yên)

Do có đóng góp riêng rất độc đáo, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chinh phục được lòng độc giả từ khi nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những thử thách của thời gian. Chúng ta ai chẳng có một tình yêu Tổ Quốc và có lúc ta phải thốt lên lời của Nguyễn Khoa Điềm

Mọi tin yêu ngay thẳng gọi ta vào Ta ngã vào người đất nước Việt Nam ơi !


Cùng chủ đề:

Tuân Tử nói: "Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy". Em nghĩ gì về câu nói trên? - Ngữ Văn 12
Tuân Tử nói: "Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy". Suy nghĩ gì về câu nói trên - Ngữ Văn 12
Tuối trẻ và tương lai đất nước - Lạm bàn về chí hướng của tuổi trẻ - Ngữ Văn 12
Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động như thế nào để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm
Tư tưởng đất nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm
Tục ngữ Pháp có câu: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu
Vai trò của sách với đời sống nhân loại - Ngữ Văn 12
Vào đại học có phải là con đường lập nghiệp duy nhất của thanh niên - Ngữ Văn 12
Vào đại học liệu có phải là con đường lập nghiệp duy nhất của thanh niên? - Ngữ Văn 12
Văn hào Nga Lép Tôn - Xtôi nói: "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống". Phát biểu suy nghĩ về vấn đề này