Văn bản Bạch Đằng khải khẩu
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng, Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng, Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Bạch Đằng khải khẩu
(Cửa biển Bạch Đằng)
Nguyễn Trãi
Phiên âm
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng,
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn từng tầng,
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tầng.
Vũng sự hồi đầu tư đã lữ,
Lâm lưu phủ cảnh ý nạn thăng,
Dịch nghĩa
Gió bấc thổi trên biển, khí nổi cuộn cuộn,
Nhẹ giương cánh buồn thơ lướt qua cửa biển Bạch Đằng.
Như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi uốn lượn quanh co,
Như cây giáo bị chìm, như chiếc kích bị gãy, bờ xếp chồng lởm chởm.
Hình thế núi sông hiểm yếu do trời bày đặt, các bậc anh hùng hào kiệt lập công danh.
Việc cũngoái đầu nhìn lại, ôi đã qua rồi,
Tới bên dòng ngắm cảnh, ý khôn nói xiết.
Dịch thơ
Biển rung gió bấc thế bùng bừng,
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng,
Kình ngạc băm tằm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gẫy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng
Việc trước quay đầu ôi đã ắng,
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.
(Nguyễn Đình Hồ dịch, Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hoá – Viện Văn học, Hà Nội, 1962, tr. 27 – 28)