Văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
[...] Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền, Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình. Ngoảnh đi thì dạ chẳng đành,
Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
(Trích Quan Âm Thị Kính – truyện thơ khuyết danh Việt Nam)
[...]
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền,
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình.
Ngoảnh đi thì dạ chẳng đành,
Nhận ra thì hoá là tình chẳng ngay.
Góm thay mặt dạn mày dày,
Trân trận rằng giả con đây mà về.
Khéo xui ra đứa làm rễ riếu- mình.
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh,
Phúc thì làm phúc, do thì đành do.
Cá trong chậu nước sơn sơ,
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao.
Chẳng sinh cũng chịu cù lao,
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay.
Bữa sau sư phụ mới hay,
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi.
Phỏng như khác máu ru thì,
Con ai mặc nấy can gì đa mang”.
Bạch rằng: “Muôn đội thầy thương,
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to.
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
Vậy nên con phải vâng lời,
Mệnh người dám lấy làm choi mà liều”.
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm
Rõ là nước lã mà nhầm,
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Mẹ vò thì sữa khát khao,
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên,
Nhai cơm móm sữa để nên con người.
Đến dân ai cũng chê cười,
Tiểu kia tu có trót đời được đâu.
Biết chăng một đứa thương đâu,
Mình là hai với Thị Mầu là ba?
Ra công nuôi bộ' thực là,
Nhưng buồn có trẻ hoá ra đỡ buồn.
Khi trống tàn, lúc chuông dồn,
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày.
Phù trì như thổi ra ngay,
Lợ phương hoạt ấu lọ thầy bảo anh.
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh,
Ma vương kia cũng phải kiêng lọ là
Thoi đưa tháng trọn ngày qua,
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi.
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tử khác nào bản sinh.
Mai ngày đến lúc trưởng thành,
Cơ cầu® dễ rạng tiền trình hơn xưa.
[...]
(Trích Quan Âm Thị Kinh, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 10, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 411 – 413)