Viết bài văn Nghị luận về vấn đề thi cử đối phó thông qua tác phẩm Tiến sĩ giấy lớp 11 — Không quảng cáo

Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Tổng hợp 50 bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra t


Viết bài văn Nghị luận về vấn đề thi cử đối phó thông qua tác phẩm Tiến sĩ giấy lớp 11

1. Mở bài - Giới thiệu bài thơ *Tiến sĩ giấy", dẫn dắt đến vấn đề danh và thực trong cuộc sống con người.

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu bài thơ *Tiến sĩ giấy", dẫn dắt đến vấn đề danh và thực trong cuộc sống con người.

2. Thân bài

а. Khái quát nội dung, ý nghĩa của bài thơ

- Bài thơ có ba lớp nghĩa: miêu tả một thứ đồ chơi cho trẻ con, đả kích những ông tiến sĩ hữu danh vô thực và tự chế giễu chính mình. Dù hiểu theo lớp nghĩa nào thì cũng rất tương xứng với từng câu từng chữ trong bài.

b. Danh và thực

- Giải thích: Danh là những thành quả mà con người gặt hái được như tiếng tăm, tiền bạc, địa vị. Thực là thực lực tự có, tự rèn luyện được của mỗi người. Thực rất đắng cay, gian khổ nhưng danh quả thật vô cùng ngọt ngào và hấp dẫn. Danh chỉ phát huy đúng ý nghĩa và lợi ích của mình khi nó thật sự là hệ quả của thực mà thôi.

- Mặt trái của danh: con người mờ mắt trước danh vọng, địa vị và sẵn sàng đi đường tắt để đạt được điều đó. Hệ quả: xuất hiện những kẻ hữu danh vô thực, những vụ tham nhũng, bê bối làm tổn thất cho Nhà nước hàng chục, hàng trăm tỉ đồng.

- Sự đảo lộn danh và thực ấy đã xoá nhoà tính công bằng trong quy luật cuộc sống. Nó đưa những người có tiền và biết đi đường tắt lên tột cùng của danh vọng, đồng thời đã làm lu mờ ý chí phấn đấu, cầu tiến của những ai có thực lực.

- Sự tráo trở giữa danh và thực ấy còn len lỏi vào học đường với căn bệnh thành tích đáng sợ. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, nắm bắt được tình hình đó, chúng ta đang thực hiện một cuộc cải cách triệt để không chỉ trong ngành giáo dục mà ở mọi lĩnh vực và toàn xã hội.

3. Kết bài

- Bài thơ “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến không chỉ phản ánh bộ mặt xã hội thời bấy giờ mà còn khiến người đọc phải dừng lại suy ngẫm về danh và thực trong cuộc đời và về con đường của chính bản thân mình.

- Hãy tin vào thực lực của mình; bởi nếu có thực lực thì danh tiếng có hay không chỉ còn là chuyện thời gian.

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một tác giả trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.

Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm – ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã hội phong kiến Việt Nam.

Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang không chỉ của bản thân từng con người mà của cả một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh, khoác lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những con người có tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời đại và tất cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất nước, phục vụ xã hội.

Đã có biết bao ông tiến sĩ trở thành trụ cột của đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên khí quốc gia, được ghi tên tuổi, công trạng trên bia đá, sử xanh. Nhưng đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi, những giá trị truyền thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không còn được coi trọng, mọi thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Kẻ có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ còn là cái danh hão, cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức sách vở cũ rích không còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Tất cả những điều đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.

Bài siêu ngắn Mẫu 2

Tiến sĩ giấy nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, được biết đến với nhiều ý nghĩa khác nhau. Mặc dù chỉ là cách nói ẩn dụ nhẹ nhàng nhưng hiện thực của một giai đoạn của xã hội, một thực trạng đang lan tràn, ngay cả tới thời kì này vẫn tồn tại.

Với cách mở đầu đầy bất ngờ, hình ảnh tiến sĩ giấy hiện ra nhưng lại ngụ theo một ý nghĩa khác. Chúng ta ai cũng biết tiến sĩ giấy là đồ chơi dành cho trẻ con mỗi khi trung thu, vậy mà tiến sĩ giấy trong bài thơ lại mang một ý nghĩa chế giễu:

“Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai!”

Ông tiến sĩ ở đây có tất cả mọi thứ mà một ông tiến sĩ thật ngoài đời có, có cờ, biển , cân đai và cũng được gọi là ông nghè cũng được xưng danh lớn. Nếu như với ý tả thực thì người ta chỉ hiểu đơn thuần ở đây chính là hình ảnh của một ông tiến sĩ bình thường, được vua ban cho bổng lộc chức danh, uy nghi.

Nhưng “ từ cũng” xuất hiện bốn lần trong bài thơ khiến cho độc giả tò mò, rằng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhưng ngụ ý của Nguyễn Khuyến ở đây chính là, ông tiến sĩ này làm bằng giấy, cũng có đủ mọi thứ để giống với một ông tiến sĩ thật nhưng thực ra lại là một tiến sĩ giấy, chẳng có tài năng phẩm hạnh gì

Tiếp đến hai câu tiếp theo , Nguyễn Khuyến lại tiếp tục miêu tả về hình ảnh ấy:

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”

Lại tiếp tục mang sắc thái trào phúng, Nguyễn Khuyến giải thích cho chúng ta hiểu, chỉ cần mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi có thể cắt dán vẽ nặn ra hình của ông tiến sĩ một cách dễ dàng. Còn với mảnh giấy thì cũng đủ để làm nên “thân giáp bảng “ và khuôn mặt của một tiến sĩ giấy là “ văn khôi” thông minh đức độ.

Nhưng một ông tiến sĩ ở ngoài đời thực không chỉ có một mảnh giấy , cũng không thể dùng mấy miếng giấy mà tạo thành, vỏ của nó có thể giống tiến sĩ nhưng ruột lại trống rỗng. Như vậy, một tiến sĩ ở ngoài đời là người chịu bao nhiêu năm đèn sách khổ luyện, bao khó khăn vất vả rồi mới trở thành tiến sĩ, từ đó ta thấy được sự đối lập hoàn toàn giữa tiến sĩ giấy và tiến sĩ thật.

Không còn chọn cách nói bóng gió nữa, Nguyễn Khuyến đi sâu vào đánh giá bên trong xem tiến sĩ giấy có những gì:

“Tấm thân xiêm sao sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.”

Mọi thứ bên trong tiến sĩ giấy hiện ra với: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy. Đó là nhằm vào những kẻ khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì.

Ý nghĩa trào phúng, châm biếm sâu sắc của đoạn thơ đến đây đã thể hiện rất rõ. Thì ra một tiến sĩ mà cũng mua được bằng tiền, nên chỉ là tiến sĩ trên giấy tờ, nhưng làm sao có thể đánh đổi với bao nhiêu năm dùi mài kinh sử.

Hình ảnh tiến sĩ giấy ở trong các dịp lễ trung thu lễ tết chỉ là cái cớ cho tác giả đi đến những ngụ ý sâu xa. “ tiến sĩ giấy– những con người không tự bản thân mình mà đi lên lại có mặt khắp mọi nơi, ngay ở cả những nơi nghiêm ngặt và quan trọng nhất. Nhưng có lẽ hai câu kết mới chính là những gì mà Nguyễn Khuyến muốn nói thẳng ra

“Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!”

Giọng thơ Nguyễn Khuyến rõ ràng có ý phê phán, cười cợt nhưng không phải phê phán, cười cợt một cách thoải mái, và phảng phất trong lời chế giễu ấy có cả sự tự chế giễu bản thân. Người ta có thể nghĩ sâu xa về việc Nguyễn Khuyến cũng là một ông nghề đich thực , một người có đức có tài, nhưng trước hoàn cảnh và vận mệnh đất nước lại đành ngậm ngùi buông xuôi.

Những ngôn từ hình ảnh tạo ra nụ cười mỉa mai chát đối với một bộ phận trong xã hội phong kiến thời xưa. Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng lại mang tính chất trào phúng sâu cay, mỗi câu mỗi từ ngày càng đưa độc giả nhìn nhận vấn đề một cách sâu xa.

Bài tham khảo Mẫu 1

Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một tác giả trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.

Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm – ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã hội phong kiến Việt Nam.

Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang không chỉ của bản thân từng con người mà của cả một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh, khoác lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những con người có tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời đại và tất cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất nước, phục vụ xã hội.

Đã có biết bao ông tiến sĩ trở thành trụ cột của đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên khí quốc gia, được ghi tên tuổi, công trạng trên bia đá, sử xanh. Nhưng đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi, những giá trị truyền thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không còn được coi trọng, mọi thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Kẻ có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ còn là cái danh hão, cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức sách vở cũ rích không còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Tất cả những điều đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.

Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên Đổ hướng tới để tạo nên tiếng cười là những đồ chơi dân gian – hình nộm ông tiến sĩ làm bằng giấy dành cho trẻ con trong những dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi này, các nghệ nhân dân gian muốn khơi dậy ở trẻ em lòng hiếu học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh quang của nền học vấn thời đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà, cha mẹ, vinh quang cho dòng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ông nghè tháng Tám là một hình ảnh mang tính truyền thống rất đẹp. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng cho người đọc biết rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này có đủ cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ oai phong mới được ghi danh đỗ đầu trên bảng rồng:

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai.”

Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn chữ "ân tứ vinh quy". Cẩn là cái khăn. "Đai" là cái vòng đeo ngang lưng ở ngoài áo chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngoài vừa uy nghi, vừa phô trương tự đắc. Tuy nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt đầu bộc lộ thái độ của tác giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến sĩ này. Từ "cũng" được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống nhau, lặp lại của hiện tượng, kết hợp với ba từ "có kém ai" khiến cho con người có học vị cao này có cái vẻ của sự giả dối, học đòi. Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật "cũng biển cũng cân đai" kia hóa ra chỉ là một ông tiến sĩ giấy, bề ngoài giống hệt như tiến sĩ thật nhưng thực chất bên trong lại rỗng tuếch chẳng có gì. Cái chất liệu làm nên con người ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh giấy và một ít son diêm dúa:

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”

Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. "Mảnh giấy" đối với "thân giáp bảng", "nét son" đối với "mặt văn khôi". "Giáp bảng" là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa, còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. "Thân giáp bảng" là người đỗ đạt cao nhưng thực chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn. Còn chỉ bằng vài "nét son" là có thể tạo nên "mặt văn khôi" – chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu song hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ thực của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.

Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình ảnh của ông tiến giấy để nói về ông tiến sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả dối của đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức tinh vi và cái thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật.

Đối với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh hiệu tiến sĩ là niềm vinh quang mà muốn đạt được nó thì người quân tử phải không ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thông kim bác cổ, có tài năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước. Có biết bao người đã theo đòi học hành chăm chỉ suốt đời mà vẫn không đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã khác, cái danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ:

“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.”

Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán: "sao mà nhẹ", "ấy mới hời" dường như giá trị của ông nghè đã có thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước khoác lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ "thân" (thân giáp bảng) hoặc "tấm thân" (tấm thân xiêm áo), chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu, mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy?

Sáu câu thơ trên như một chiếc đòn bẩy để hai câu thơ cuối buông ra một lời kết luận khiến người đọc bàng hoàng:

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.”

Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự đối lập, tương phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật của ông tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn gây cho người đọc ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất đương thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này cũng sẽ là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ bảnh chọe đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ giả dối bên ngoài:

“Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.”

Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là một thứ con rối chịu để kẻ khác giật dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều đình bù nhìn toàn những quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ có thể sản sinh ra cái thứ hàng mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả lũ rối người ấy từ trên xuống dưới không ai khác chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy tất cả điều đó và ông kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú nhất nhưng đã trở nên lỗi thời của cái thể chế đó.

Tam nguyên Yên Đổ đã táo bạo đưa vào trong thơ mình những hư từ, lời nói khẩu ngữ kiểu như: "cũng… cũng", "kém ai", "sao mà nhẹ", "ấy mới hời", "tưởng rằng"…, đưa chất văn xuôi, chất thế tục vào trong một thể thơ có tính ước lệ, tượng trưng cao như thơ Đường luật, khiến cho thể thơ này trở nên gần gũi hơn, giàu giá trị hiện thực hơn. Nhà thơ phát hiện mâu thuẫn đáng cười ở đối tượng qua những nét đối lập của sự đồng dạng, giống nhau, (tiến sĩ thật – tiến sĩ giấy). Đó là những mâu thuẫn, những điều lố bịch gây cười có ngay trong bản thân đối tượng mà chính nó không hề ý thức được.

Lối trào phúng của ông già Yên Đổ là lối trào phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của người viết không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau những hình ảnh và từ ngữ. Muốn hiểu được tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước “giải mã”, suy đoán, bóc tách từng lớp ngôn từ, ẩn ngữ với những ẩn dụ, phúng dụ… Để nhận ra thực chất của loại tiến sĩ thật dưới chế độ nửa thực dân phong kiến thì phải có tri thức về thứ đồ chơi trung thu của trẻ nhỏ – hình nộm ông nghè tháng Tám; hay muốn biết về thân phận vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực dân nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc biệt là hề chèo (bài thơ Lời vợ người hát phường chèo) v.v…

Rõ ràng, để có được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng này, tác giả phải là người trong cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu không sẽ tạo nên những cú đánh trượt. Nguyễn Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như vậy chính vì ông là con đẻ của chế độ khoa cử triều Nguyễn và là người đạt đến đỉnh cao vinh quang của học vấn đương thời. Nhưng con người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào triều đình, vào vốn học vấn của mình trước thực tế lịch sử, khi mà tất cả vũ khí vật chất và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền thống tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một cách dễ dàng.

Ông cũng cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực của lớp người đại diện cho tinh hoa của chế độ ấy và nghi ngờ chính bản thân mình. Bởi trong số những ông nghè tháng Tám hết thời ấy có cả bản thân Nguyễn Khuyến nhưng tất nhiên ông Tam Nguyên Yên Đổ hoàn toàn khác với những kẻ hữu danh vô thực đương thời. Điều ấn tượng và độc đáo ở đây là cái hài hước ấy xuất phát từ trong lòng đối tượng bị phê phán. Sự phủ định rõ ràng còn có thêm màu sắc tự phủ định. Tính bi hài của hình tượng văn học nhờ vậy càng trở nên sâu sắc gấp bội.

Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình – tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.

Tiến sĩ giấy là biểu hiện rõ nhất của tiếng nói tự trào. Nguyễn Khuyến đã lấy việc khách thể hóa bản thân để bộc lộ tâm trạng mình. Tiếng nói lưỡng phân đa chiều, vừa hướng nội, vừa hướng ngoại này chỉ có được khi con người tự ý thức được tình trạng bi hài của mình trước thực tế lịch sử, nó bộc lộ những day dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong chính bản thân nhà thơ, bỏ xa kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại. Trong văn học trào phúng, phê phán và phủ định điều này cũng chính là để khẳng định, bảo vệ một chân lý nào đó. Nguyễn Khuyến châm biếm, đả phá cái giả Nho, cái vô dụng, chính là để khẳng định cái chân Nho, khẳng định những giá trị truyền thống của dân tộc, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của riêng mình để tự phản tỉnh trước thực tế của sự khủng hoảng các giá trị đạo đức đương thời.

Mỹ học về cái hài dường như không bao quát hết những sắc thái đa diện của thi tài Nguyễn Khuyến. Trong Tiến sĩ giấy nói riêng và trong thơ tự trào của ông nói chung, cái hài thường bị cái bi lấn át. Điều đó cũng khiến cho tính trữ tình, sự kết hợp giữa hai phẩm chất trào phúng và trữ tình trong các bài thơ trào phúng của ông trở nên nhuần nhuyễn, ý thơ như còn đọng mãi trong lòng người đọc. Vì vậy, Nguyễn Khuyến tự trào, tự giễu cợt mình, về mặt khách quan, cũng chính là đang trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho một xã hội thối nát, một nền học vấn đã hết thời, và một giai cấp đang từng bước chấm dứt vai trò lịch sử. Danh vị tiến sĩ nay đã trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi để dứ thằng cu, mà mỗi lần nhìn thấy thứ hình nộm ấy, vị Tam nguyên lừng lẫy một thời, vị quan đại thần của triều đại đương thời lại cứ tưởng như người ta đang đem mình ra để bỡn cợt:

“ Rõ chú hoa man khéo vẽ trò

Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.”

(Vịnh tiến sĩ giấy, I)

“Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”.

(Tự trào)

Có lẽ Nguyễn Khuyến là người trí thức đầu tiên trong thời đại ông có được cái nhìn tỉnh táo như vậy. Không phải người trí thức nào trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra được những hạn chế tất yếu của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước thực tế lịch sử. Nguyễn Khuyến lớn chính vì ông đã sớm nhận ra tất cả những điều đó.

Rõ ràng, bên cạnh màu sắc bi, hài, tự trào thấm đẫm chất trữ tình, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến còn mang tính triết lý sâu sắc về nhiều vấn đề xã hội, trong đó nổi bật là triết lý về thân phận của người trí thức, của lớp nho sĩ cuối mùa tầng lớp mang trong số phận của mình bi kịch có tính chất nhân loại ở buổi giao thời dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Nguyễn Khuyến đã tự phản tỉnh mình, tự ý thức được thân phận con người thừa của mình, thấy mình là một hủ nho trong thời buổi mới. Mặc cảm con người thừa, con người vô tích sự phải đến Nguyễn Khuyến và đặc biệt Tú Xương sau này mới thật sự rõ nét. Tuy nhiên về chủ đề này giữa hai nhà thơ có những khác biệt cơ bản. Tú Xương cũng có bài thơ Tiến sĩ giấy nhưng hình tượng nhân vật của ông không có lớp nghĩa tự trào, không có màu sắc bi kịch và ít chi tiết khắc họa mang tính điển hình. Con người không có duyên phận với khoa cử này đứng ở thế đối lập với những kẻ mang danh khoa bảng mà không phải là người trong cuộc, người ở trên nhìn xuống như Nguyễn Khuyến. Vì vậy ông Tú có thể chửi thẳng mà không e dè và cũng không hề có chút chua xót cho đối tượng bị trào phúng:

“ Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào?

Thế mà hoa hốt với trâm bào?

Mỗi năm ngày tết trung thu đến

Tôi vẫn quen ông chẳng muốn chào.”

Có thể thấy, hình tượng Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến mang tính đa nghĩa, giàu liên tưởng và cũng là hình tượng có tính điển hình và tính khái quát cao độ hơn. Điểm chung giữa hai tác giả chính là tấm lòng ưu ái suốt đời trăn trở vì dân, vì nước được thể hiện phong phú qua những bài thơ giàu giá trị nghệ thuật.

Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam ở giai đoạn đỉnh cao. Tiến sĩ giấy cũng không chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong thời đại của Tam nguyên Yên Đổ mà còn là hình tượng nghệ thuật mang giá trị phổ biến, chỉ những kẻ bề ngoài mang danh của người có học thức cao nhất nhưng thực chất bên trong lại không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang. Những nhân vật đó thời nào cũng có, đặc biệt trong những giai đoạn mà những giá trị thật giả lẫn lộn, đồng tiền lên ngôi, thời kỳ mà con người được định giá bằng đủ thứ danh hiệu hình thức thì loại người đó càng nhiều. Họ có thể là những kẻ mua danh bán tước, những tiến sĩ giả, nhưng họ cũng có thể là những người đi học thật nhưng tài năng kém cỏi và Nguyễn Khuyến chính là người đầu tiên đã tổng kết hiện tượng xã hội đó thành một hình tượng nghệ thuật điển hình tượng trưng cho mọi thời đại. Điều đó đã khẳng định giá trị sáng tạo và sức sống bền vững muôn đời của thơ ca Tam nguyên Yên Đổ.

Bài tham khảo Mẫu 2

Bài thơ Tiến sĩ giấy nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Nhưng trào phúng thường phải ngụ trữ tình mới hay. Mọi người đều biết Tam Nguyên Yên Đổ cũng là một ông nghè nổi tiếng tài ba, thừa hiểu tiến sĩ giấy chỉ là thứ đồ chơi cho trẻ con, vậy mà sao còn làm thơ chế giễu?

“Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến viết:

Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai!”

Tác giả đang tả thực ông tiến sĩ giấy với đủ các thứ sang trọng vua ban cho ngày vinh quy như cờ, biển, cân đai và cũng gọi là ông nghè. Tại sao chỉ trong hai câu mà nhà thơ lại dùng một loạt bốn từ cũng? Đọc lên âm điệu giống như thể hiện thái độ ngạc nhiên trước một sự lạ.

Người đọc ngầm hiểu là trong đời có những ông tiến sĩ những ông nghè thật, xứng đáng với các thứ cờ, biển, cân đai đó, còn ông tiến sĩ này tuy cũng đầy đủ các thứ và cũng được người đời gọi bằng ông nghè nhưng chẳng có chút giá trị nào, vì đó chỉ là một ông nghè giả làm bằng giấy.

Nghĩa đen là thế, còn nghĩa bóng là tuy cũng có đủ thứ quý giá thật đấy nhưng tài cán, đức hạnh chẳng ra gì. Ngụ ý thâm thuý của Nguyễn Khuyến là vừa tả hình dáng ông tiến sĩ giấy, vừa gợi cho người đọc liên tưởng đến những kẻ tuy mang danh tiến sĩ, áo mũ xênh xang nhưng thật sự chẳng có một chút tài đức nào.

Hai câu thực tiếp tục phát triển ý nghĩa ấy :

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”

Với vài mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi bồi bồi, dán dán thành hình một ông tiến sĩ giấy, mặt mày phết màu trắng rồi dùng màu son tô điểm cho đẹp. Phần ấy là giả. Còn thân giáp bảng (giáp bảng là bảng thứ nhất sơn vàng nên còn được gọi là bảng vàng), dùng để ghi danh những người đỗ đại khoa, từ tiến sĩ trở lên.

Văn khôi nghĩa là tài giỏi về văn chương. Mặt văn khôi là cách gọi những tiến sĩ có tài xứng với học vị cao quý đó. Làm nên thân giáp bảng và điểm rõ mặt văn khôi đâu phải chĩ cần mấy mảnh giấy và vài nét son mà thành. Phải bao năm đèn sách, có khi suốt cả đời, lại phải là kẻ thông minh, tài cao, chí lớn, gặp thầy gặp bạn mới nên danh chứ đâu có dễ dàng gì.

Tuy vậy, ở đời không ít những vị tiến sĩ bằng xương bằng thịt, học hàm học vị hẳn hoi nhưng cũng chẳng khác gì loại tiến sĩ giấy. Cái thân giáp bảng và mặt văn khôi chẳng qua cũng chỉ là kết quả của những mảnh giấy do chạy chọt bằng thế lực đồng tiền và những nét son vẽ vời bôi bác để che mắt thiên hạ. Dù sao, cái thật và cái giả ở đây cũng vẫn còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi! Cái giả chưa được tác giả đem ra phê phán.

Hai câu luận:

“Tấm thân xiêm ảo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.”

Không còn lấp lửng, bóng gió nữa, từ miêu tả bên ngoài, nhà thơ đã đi vào đánh giá bên trong, vẫn nói vể ông tiến sĩ giấy như: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy mà chĩa thẳng vào các vị khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì xứng đáng với danh vị cao quý ấy.

Vậy mà cũng vênh vang với Gái danh ông nghè, ông thám, thì quả là cái giá khoa danh ấy quá rẻ, quá hời, chỉ nhờ dịp may mà mua được. Ý nghĩa trào lộng, châm biếm sâu cay của đoạn thơ đến đây đã thể hiện rất rõ.

Như thế là không phải chỉ đến Tết Trung thu mới xuất hiện hàng loạt những ông tiến sĩ giấy, mà tiến sĩ giấy hằng ngày có mặt khắp nơi. Trong đám quan lại của triều đình nhà Nguyễn cuối thế kỉ XIX, thiếu chi thân giáp bảng, mặt văn khôi nhưng cũng chẳng hơn gì loại tiến sĩ giấy.

Lớp trước sợ giặc, hèn nhát đầu hàng. Lớp sau dựa vào lí lẽ tùy thời, ra làm quan với triều đình bù nhìn, ngoan ngoãn chấp nhận kiếp làm tay sai cho thực dân Pháp. Đến đây thì xiêm áo không chỉ nhẹ, khoa danh không chỉ hời mà đã thành dơ bẩn. Cho nên tác giả mới kết thúc bài thơ bằng hai câu nhận xét thâm thuý:

“Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!”

Trở lại với tựa đề bài thơ và hai đối tượng một hiện, một ẩn là ông tiến sĩ giấy và ông tiến sĩ bằng xương bằng thịt, chúng ta thấy giá trị chẳng khác gì nhau.

Có một điều lạ là giọng thơ Nguyễn Khuyến rõ ràng có ý phê phán, cười cợt nhưng không phải phê phán, cười cợt một cách thoải mái, hả hê mà phảng phất trong lời chế giễu ấy có cả sự tự chế giễu bản thân.

Bởi cụ cũng là một ông nghè đích thực, hơn nữa là Tam Nguyên Yên Đổ nổi danh, nhưng trước tình cảnh tang thương của đất nước lúc bấy giờ, cũng đành thở dài ngậm ngùi, buông xuôi, bất lực

Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe là lời bình phẩm theo kiểu nâng nhân vật lên cao để rồi bật ra cái cười mỉa mai chua chát, đắng cay khi phải phơi bày sự thực là tiến sĩ thật hay tiến sĩ giấy giờ đây cũng đểu là thứ đồ chơi mà thôi! Nỗi đau tuy chưa chảy thành nước mắt nhưng cứ rưng rức ở trong lòng nhà thơ

Bài thơ Tiến sĩ giấy mới đọc qua tưởng chỉ là một bài thơ vịnh vật đơn thuần nhưng suy ngẫm kĩ, ta sẽ thấy nó hàm ẩn chất trào phúng trữ tình sâu thẳm, thật đáng trân trọng.

Bài tham khảo Mẫu 3

Bài thơ được sáng tác vào cuối thế kỉ XX, dưới chế độ thực dân, nền văn hóa Nho học lụi tàn, các kì thi thời bấy giờ vô cùng mục nát. Đứng trước thực trạng này, danh nho Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ này. Mở đầu tác phẩm tác giả đã miêu tả sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người, được so sánh với các yếu tố như cờ, biển và cân đai. ‘’Cũng cờ cũng biển cũng cân đai": Từ ngữ này sử dụng các yếu tố như cờ, biển và cân đai để ám chỉ sự quyền lực, uy quyền hoặc sự địa vị xã hội. Câu thơ sử dụng từ "cũng" để nhấn mạnh sự tương đồng."Ông Nghè" là một người có quyền lực, địa vị cao trong xã hội. Câu thơ này có thể miêu tả sự tương đồng, sự đồng nhất giữa các yếu tố như cờ, biển và cân đai, và sự tương đồng này cũng ám chỉ sự quyền lực, uy quyền hoặc sự địa vị xã hội. Câu thơ cũng nhấn mạnh sự không thể vượt qua, không thể sánh bằng của ông Nghè, ngụ ý rằng ông Nghè là một người có địa vị, quyền lực và không ai có thể vượt qua hay sánh bằng. Câu thơ miêu tả về sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người trong xã hội, đồng thời nhấn mạnh sự không thể vượt qua, không thể sánh bằng của ông Nghè.

‘’Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.’’

Nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. "Mảnh giấy" đối với "thân giáp bảng", "nét son" đối với "mặt văn khôi". "Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng’’.Thân giáp bảng có thể hiểu là bề mặt của bảng, nơi mà những điều quan trọng được ghi chú và truyền đạt. ‘’Nét son điểm rõ mặt văn khôi" ám chỉ sự trang trọng, quý phái của một tấm giấy được sử dụng để làm giáp bảng hoặc viết văn bản quan trọng. Đoạn thơ này có thể miêu tả sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người, được so sánh với các yếu tố như cờ, biển và cân đai. Ông Ghè có vẻ ngoài của một tiến sĩ thực thụ nhưng kiến thức thực sự của ông lại nhẹ như một tờ giấy và một nét son. Qua đó, ta thấy nhà thơ đã bộc lộ rõ nét một chế độ giáo dục mục ruỗng. Ông đã cảm nhận tiến sĩ chỉ như mảnh giấy, nét son. Bởi mảnh giấy và nét son được sử dụng để tạo ra một hình ảnh trang trọng, quý phái, nhưng sâu bên trong thì vô cùng ngu ngốc, không còn một chút tài đức nào.

‘’Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời’’

Đoạn thơ này có hai câu: Câu thứ nhất đặt câu hỏi: Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Đây có thể là một câu hỏi đặt ra để thể hiện sự ngạc nhiên hoặc sự kinh ngạc về sự nhẹ nhàng, thoải mái của tấm thân xiêm áo. Tấm thân xiêm áo có thể được hiểu là một biểu tượng cho cuộc sống đơn giản, không phức tạp. "Cái giá khoa danh ấy mới hời" có thể được hiểu là giá trị của danh vọng, uy tín, danh tiếng chỉ là một cái giá rẻ. Điều này có thể ám chỉ rằng danh vọng và danh tiếng không đáng giá bằng những giá trị khác trong cuộc sống. Đoạn thơ nhấn mạnh sự giản dị và giá trị thực sự của cuộc sống, đồng thời phê phán sự quan trọng quá mức đối với danh vọng và danh tiếng. Đến hai câu cuối, sự mỉa mai của bài thơ mới thực sự đạt đến đỉnh điểm, phá hủy sự thật và sự giả dối của câu trước:

"Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!’’

"Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe" mô tả một hình ảnh về việc ngồi trên một chiếc ghế chéo lọng màu xanh, và người ngồi được mô tả là "bảnh chọe", "Ghế treo lọng xanh" có thể. Cụm từ "bảnh chọe" có thể ám chỉ sự thoải mái, thoải mái, hoặc sự tươi trẻ, tinh tế. Câu thứ hai nói về việc nghĩ rằng "đồ thật hoá đồ chơi. "Đồ chơi" ở đây có thể đại diện cho những thứ nhẹ nhàng, không quan trọng, trong khi "đồ thật" là những điều quan trọng, nghiêm túc. Đoạn thơ này có thể là một lời nhắc nhở về việc giữ cho cuộc sống và giá trị thực của chúng ta không bị mất đi nhất là thời kì công nghệ đang phát triển, nơi mà đôi khi sự giả mạo có thể che đậy giá trị thực sự.

Bài thơ "Tiến sĩ giấy" đã đóng góp cho xã hội Việt Nam lúc bấy giờ trong việc khơi dậy nhận thức xã hội và đấu tranh cho sự công bằng, bình đẳng. Đây cũng là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Nguyễn Khuyến và được coi là biểu tượng của phong trào cải cách xã hội, giáo dục trong lịch sử Việt Nam.


Cùng chủ đề:

Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng xả rác bừa bãi lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về số phận của người nông dân trong tác phẩm Tắt đèn lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về số phận của người nông dân trong truyện ngắn Lão Hạc lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về vấn đề thi cử đối phó thông qua tác phẩm Tiến sĩ giấy lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về vấn đề tình yêu tổ quốc thông qua tác phẩm Hịch tướng sĩ lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
Viết bài văn Nghị luận về văn hóa hội nhập lớp 11
Viết bài văn nghị luận về bản lĩnh lớp 11
Viết bài văn nghị luận về lòng trung thực lớp 11