Viết bài văn phân tích tác phẩm Mời trầu lớp 8 — Không quảng cáo

Tổng hợp 50 bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài


Viết bài văn phân tích tác phẩm Mời trầu lớp 8

1. Mở đoạn: - Giới thiệu đôi nét về bài thơ Mời trầu.

Dàn ý chi tiết

1. Mở đoạn:

- Giới thiệu đôi nét về bài thơ Mời trầu

2. Thân đoạn:

- Ý nghĩa nhan đề “Mời trầu”.

- Hình ảnh miếng trầu quả cau nhỏ bé như chính số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

- Lời khẳng định bản thân, tuyên bố chủ quyền của thi sĩ.

- Câu nói giao duyên, tự đi tìm hạnh phúc, tự se duyên cho chính mình.

- Nỗi niềm trăn trở, mong mỏi về hạnh phúc lứa đôi.

3. Kết đoạn:

Khẳng định giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của tác phẩm qua những câu thơ bình dị, giàu tính nhân văn mà nhà thơ Hồ Xuân Hương thổ lộ.

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn lịch sử này, chế độ phong kiến suy tàn đã bộc lộ những hạn chế, bất công. Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những suy tư, trăn trở trước hiện thực của xã hội, trước thân phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ. Những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của bà thời kì này không thể không kể đến bài thơ “Mời trầu”.

Mời trầu cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc “Mời trầu” không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và giọng điệu mộc mạc.

Hình ảnh miếng trầu đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Miếng trầu ấy có quả cau, có lá trầu. Hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quệt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu. “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ “thắm” sử dụng rất đắt. “Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy. Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.

Bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người, của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ ‘thân em vừa trắng lại vừa tròn – bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.

Với ngôn từ giản dị, giàu ý nghĩa, bài thơ “Mời trầu” như bao quát chuyện tình duyên lận đận của tác giả. Bà luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Bài siêu ngắn Mẫu 2

Thông thường, những tác phẩm có tư tưởng lớn đều có hình thức mang tầm vóc lớn, đề tài cũng lớn. Những tác phẩm lấy đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn chỉ đủ sức chứa đựng một tư tưởng quẩn quanh với cuộc sống sinh hoạt đời thường. Tuy nhiên, văn học cũng không hiếm những nghịch lý, làm nên sự kỳ diệu của nó. Đó là trường hợp những bài thơ đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn nhưng chứa đựng những tư tưởng lớn, phá vỡ cái chật hẹp, ràng rịt của tư tưởng cũ kỹ, hà khắc; nâng niu một khát vọng mãnh liệt, chân thành. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là một điển hình như vậy:

“ Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Cảm thức thẩm mỹ bấy giờ thường trọng vọng những bài Đường luật đạo mạo, cổ kính, với thứ chữ Hán được điểm tô lộng lẫy bằng vô số điển tích ngoại lai. Vậy mà Mời trầu, vẫn khuôn khổ một thất ngôn tứ tuyệt, nhưng vóc dáng đường hoàng là chữ Nôm, hồn dân tộc. Thứ chữ “nôm na mách qué” đó đã tạo một tầm vóc trẻ, sừng sững trên văn đàn, mang theo sinh khí của văn hóa dân gian Việt nam: ca dao, tục ngữ, thành ngữ,…

Thời đại này, các nho sĩ hầu hết là nam giới. Tài tử, văn nhân hầu hết là đấng “tu mi” ngâm hoa vịnh nguyệt, cố teo tóp cái bản ngã, để hòa tan, trộn lẫn vào “cái ta” nhợt nhạt, vô hồn. Vậy mà, trong lúc đó, tác giả của Mời trầu lại là nữ giới – một phụ nữ dám tung hê, bóc trần cái “hoa nguyệt” giả dối, phù phiếm. Nữ sĩ còn dám đường hoàng xưng “tôi”, “cái tôi” làm kinh ngạc, ngã ngửa bao đấng tu mi, những bậc “hiền nhân quân tử ”.

Bài thơ thật xinh xắn, chỉ hai mươi tám chữ. Đề tài lại nhỏ bé, chuyện mời trầu. Tưởng gì, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ thuở xa xưa, người Việt đã có tục ăn trầu. Người Việt vốn hiếu khách, lại hay giao tiếp, chuyện mời trầu nhau có gì đáng nói? Nhưng ngờ đâu, một tứ thơ lớn đã ẩn sau đề tài nhỏ bé ấy. Miếng trầu là vật để giao tiếp, đãi bôi . Nhưng miếng trầu còn là sự thắm đỏ của nghĩa tình, là sứ giả của tình yêu, là chứng nhân của tình chồng vợ.

Miếng trầu mời thật dân dã, tự nhiên, gợi cảm, chân thành, nhưng cách mời mới thật nồng nhiệt làm sao:

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi ”

Xã hội phong kiến đâu chấp nhận “cái tôi ” với lời xưng trực tiếp như vậy. Thế mà, người phụ nữ ở đây lại dám tin vào chính mình, tự thừa nhận tấm tình của riêng cá nhân mình. Đã vậy, trầu vừa quệt là mời ngay. Hành động “mới quệt ” hết sức khiêm tốn và chân thành. Miếng trầu có thể không khéo léo cách têm nhưng là cả sự nồng hậu, chào mời. Người phụ nữ mang tên hương – mùa – xuân quả thật hết sức khát khao nghĩa tình giữa con người với nhau trong cuộc sống. Tấm lòng ấy đã chủ động trao tặng cho người sự chân thành, thắm thiết.

Nếu như hai câu trên, giọng thơ thật chân thành, nồng nhiệt, vồn vã, đầy khát khao thì ở hai câu sau, giọng thơ lại chuyển sang trầm lắng, đầy trăn trở, ưu tư:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi ”

Hai câu thơ đầy màu sắc, đó là “xanh” của lá, “bạc” của vôi, pha trộn lại thì bạc và xanh đã hóa thành “thắm” rồi. “Thắm” là màu đỏ tươi của miếng trầu, mà cũng là thắm thiết, thắm tình – sắc màu của sự gắn bó, hòa hợp, chung tình. Nhà thơ đã khai thác tài tình ý nghĩa tượng trưng của màu sắc. Cái lá trầu và ít vôi, ăn chung với nhau thì rasắc thắm, “thắm lại ”. Nhưng tách riêng thì chỉ còn rời rã một màu xanh non nớt, lạnh lùng, chỉ còn màu bạc của sự bạc bẽo, bội bạc, hai lòng. Buồn thay cho sự chia lìa, bội bạc! Niềm khao khát ở đây sao mà ưu tư và buồn thấm thía. Đã vậy, những từ ngữ “có phải… thì… đừng … như…” chẳng khác con dao bổ cau, cứa vào lòng, cứa vào trái tim vốn quen đập với nhịp chân thật, chung tình. Nghệ thuật so sánh cuối bài thơ được hái từ giàn trầu thành ngữ Việt Nam: “xanh như lá, bạc như vôi ”. Ý thơ gợi ra một khát vọng đầy ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải dư vị chua chát, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối. Ngẫm lại cuộc đời, tâm sự của Hồ Xuân Hương, sao thấy bài thơ như là thân phận, số phận – đầy éo le, dở dang, trăn trở. Biết bao giờ, biết ai người sẽ “phải duyên nhau ”.

Cả bài thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm của một phụ nữ đa tài, tấm lòng rộng mở và muốn được vẹn tình. Tâm tình ấy, khát vọng ấy đã vang lên, trong trẻo và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những định kiến tàn nhẫn, u ám của thời đại. Đó là tín hiệu đẹp cho sự đâm chồi, nảy tược của một ý thức cá nhân, của tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc cho người phụ nữ. Chắc rằng, tiếng vọng mời trầu của Hồ Xuân Hương đã băng qua thời gian, lay chuyển biết bao tâm hồn xanh xao, bạc bẽo tìm đến với nhau trong một tình yêu chân thật, hòa hợp, chung tình.

Bài siêu ngắn Mẫu 3

Thơ Xuân Hương vẫn thu hút người đọc, với sự tinh tế và biểu cảm trong những câu thơ. Bài thơ Mời trầu là tuyệt tác nhỏ nhưng chứa đựng biết bao tâm sự của Hồ Xuân Hương về cuộc sống và tình yêu. Bài thơ thể hiện lòng bênh vực cho phụ nữ và là giọng nói mạnh mẽ của nàng thơ Nôm.

Nhan đề Mời trầu mang đầy ý nghĩa, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Miếng trầu trong thơ không chỉ là hình ảnh đẹp mắt, mà còn là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc lứa đôi của Xuân Hương. Bài thơ mở ra với hình ảnh miếng trầu nhỏ và thơm, là sự tượng trưng cho nguyện ước của bà.

Thơ sưu tầm nói về miếng trầu này và người tạo nên nó - Xuân Hương:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Hình ảnh miếng trầu nhỏ được tạo nên từ lá cây cay, nhưng vô cùng đẹp đẽ. Quả cau nhỏ đó như biểu tượng cho thân phận nhỏ bé của phụ nữ xưa, với một vẻ đẹp và tinh tế riêng. Miếng trầu vừa mới quệt, tươi xanh và thơm ngon, chứa đựng biết bao tâm sự và mong ước của Hồ Xuân Hương. Đây không chỉ là miếng trầu thông thường, mà còn là biểu tượng của trái tim và tâm hồn nữ sĩ đầy khao khát.

Đến hai câu thơ sau, nhà thơ muốn truyền đạt điều gì đó đặc biệt:

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi

Nhà thơ mong muốn rằng nếu có duyên với Xuân Hương, người đó hãy giữ được sự thắm thiết, không để tình cảm phai nhạt như lá cây. Đừng để bản thân trở nên nhạt nhòa như vôi bạc. Xuân Hương sử dụng so sánh tự nhiên để thể hiện mong muốn của mình trong tình yêu.

Bài thơ như một cuốn nhật ký, ghi lại tâm tư và cảm xúc của Hồ Xuân Hương. Cô luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc lứa đôi, và điều đó khiến cho người đọc yêu quý và trân trọng hơn người phụ nữ tài năng này.

Bài tham khảo Mẫu 1

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ sống khoảng cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, quê quán Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu – Nghệ An. Là người nổi tiếng với những sáng tác thơ bằng chữ Nôm, bà đã được nhân dân mệnh danh là bà chúa thơ Nôm với nhiều sáng tác nổi tiếng về đề tài bênh vực, đề cao phụ nữ và để kích thói đạo đức giả của quan lại vua chúa. Và một trong số các bài thơ tiêu biểu của Hồ Xuân Hương có thể kể đến chính là tác phẩm Mời trầu.

Ngay từ khi còn rất nhỏ, Xuân Hương đã thể hiện là một cô gái cá tính, thông minh và chăm chỉ. Đặc biệt, bà có biệt tài làm thơ phú rất đặc sắc. Lớn lên trong giai đoạn xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ, nên tâm hồn bà đã ít nhiều bị ảnh hưởng, điều đó cũng tác động tới những sáng tác của bà.

Thi sĩ Hồ Xuân Hương có ngoại hình xinh đẹp, tính tình lại phóng khoáng, quen nhiều biết rộng. Tuy nhiên dường như “hồng nhan thì bạc phận” nên đường tình duyên của bà vô cùng lận đận. Mặc dù lấy hai đời chồng nhưng lần nào bà cũng phải làm lẽ và không có con. Cuối cùng, bà phải sống lẻ loi trong cô độc khi người chồng thứ hai chết.

Người đời không chỉ biết đến thi sĩ Hồ Xuân Hương là một con người tài hoa, nhan sắc mà còn là “bà chúa thơ Nôm”. Bởi có lẽ, trong nên văn học Hán Nôm, chưa ai có khả năng sử dụng chữ Nôm hay và độc đáo như mà. Hầu hết bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật (tám câu bảy chữ) hoặc thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ) trong các sáng tác của mình. Điển hình một số tác phẩm của bà đã được đưa vào chương trình giáo dục của một số khối lớp như: Bánh trôi nước, Mời trầu…

Toàn bài thơ chỉ gói gọn trong 4 câu nhưng lại chứ đựng những thông điệp vô cùng ý nghĩa và sâu cay.

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Mời trầu là một hình giao tiếp thường xuất hiện trong văn hóa của người Việt Nam. Khi khách đến nhà, người chủ nhà sẽ thường mời trầu, mời nước sau đó mới bắt đầu câu chuyện. Mời trâu không chỉ là nét đẹp truyền thống dân gian mà còn là tục lễ trong các đám rước dâu, cưới hỏi. Khi nhà trai tới hỏi chuyện nhà gái, bao giờ cũng có cơi trầu để bày tỏ nỗi niềm và mong muốn kết mối lương duyên. Bởi thế, mời trầu là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi, là minh chứng cho sự nên duyên vợ chồng, là niềm vui, là sự chung thủy. Nếu là người thường, mời trầu sẽ chỉ là hình thức thủ tục cần phải có, nhưng trong mắt Hồ Xuân Hương, mời trầu đã nói lên cả một số phận, cả một cuộc đời con người.

Tác giả miêu tả trực tiếp hình dáng quả cau. Đó là quả cau nhỏ nhỏ xinh xinh, chứ không là quả cau to tròn mập. Nho nhỏ ở đây còn ví như thân phận con người bé nhỏ trong cái xã hội phong kiến đầy rầy bất công. Nho nhỏ như số phận của những người phụ nữ trong xã hội trong nam khinh nữ ấy.

Tiếp đến là hình ảnh miếng trầu. Bà không bảo là miếng trầu thơm mà lại là “miếng trầu hôi”. Phải chăng bà đang xót thương cho chính mình và những người phụ nữ, luôn bị xã hội vùi dập và chà đạp.

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Dù họ có xinh đẹp, có tài năng, như thế nào thì ở trong xã hội ấy vẫn không được coi trọng. Có lẽ chính những trải nghiệm cuộc đời mà thi sĩ Hồ Xuân Hương mới có cái nhìn thấu đáo tới thân phận người phụ nữ đến vậy. Bà xót thương cho họ cũng chính là khóc thương chính mình.

Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương, độc giả bất ngờ khi thấy tên tác giả xuất hiện. Có lẽ chưa ai như bà, biến mình thành nhân vật chính với lời khẳng định chắc nịch và đầy khảng khái, quyết liệt như thế.

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Bà không hề dịu dàng, mà mạnh mẽ quả quyết khẳng định chủ quyền của mình với miếng trầu vừa được mời kia. Bà đã quyệt vôi vào đấy rồi, bà đã có ý định ăn miếng đó rồi nên nó là của Xuân Hương đấy. Một câu thơ nghe như là một lời tuyên bố thẳng thừng. Đồng thời vừa cảnh cáo những kẻ le ve xung quanh đừng có mà nhăm nhe đồ của Xuân Hương nữa. Theo nghĩa đen có thể hiểu nôm na là thế, nhưng ẩn sau đó là tâm tình của “bà chúa thơ Nôm”. Không phải ai cũng dám khảng khái đưa tên mình vào thơ ca như bà. Nhưng bà hiểu mình là ai. Bà hiểu mình đang làm gì và muốn gì. Do đó, bà mới có thể không ngại ngần xướng tên lên như thế. Đồng thời qua đó, bà cũng muốn nhắc nhở thế gian, Hồ Xuân Hương là người phụ nữa đã trải đời nhiều rồi. Nên bà không e dè, cũng không sợ hãi để luồn cúi. Dù xã hội có thối nát đến đâu, thì bà vẫn sẽ giữ mãi những nét riêng của bà, những điều thuộc về bà. Thật là một người phụ nữ mạnh mẽ và kiên trung, không phải ai thời đó cũng có được đức tính đó.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Trong các tiệc cưới hỏi luôn luôn có sự xuất hiện hình ảnh miếng trầu. Và khi những người tham gia tiệc vui ấy ăn trầu, thường đôi môi sẽ đỏ thắm lên. Cũng đồng nghĩa với việc mối tơ duyên ấy đã thành công. Ở đây, tác giả không ngần ngại hỏi đối phương “có phải duyên nhau”. Mặc dù là nữ giới, nhưng tác giả đã chủ động để tìm kiếm tình yêu. Xuân Hương không ngồi chờ đợi để cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, mà tự mình tìm kiếm, quyết định hạnh phúc lứa đôi. Tác giả không sợ mang tiếng là con gái mà “cọc đi tìm trâu”. Thi sĩ chỉ biết rằng, nếu đã phải duyên nhau thì nên thắm lại, đừng dùng dằng mà khiến hai bên đau khổ.

Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương, càng về cuối càng thấy rõ cá tính mạnh mẽ, phóng khoáng, tụ do tự tại của thi sĩ. Bà luôn yêu cái đẹp, khát khao niềm hạnh phúc lứa đôi. Bà cảm thương cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Bà dám đứng lên để đi tìm tình yêu của mình. Nhưng bà cũng hiểu, xã hội ấy không phải lúc nào cũng như y muốn. Bởi thế bà nhắc nhớ một ai đó còn đang do dự, còn đang dùng dằng nửa vời rằng:

“Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Màu xanh của lá, màu trắng của vôi vốn là màu đẹp của tự nhiên. Thế nhưng qua con mắt của “bà chúa thơ Nôm” nó trở nên thật thâm thúy. Bạc ở đây là bạc tình bạc nghĩa. Bà ý nói những người có duyên với nhau rồi thì hãy biết trân trọng, hãy thắm thiết chứ đừng nhạt nhòa non nớt như màu xanh của lá, đừng phụ bạc lẫn nhau để rồi mà đau khổ.

Có lẽ những trải nghiệm trong cuộc đời đã khiến bà có cái nhìn đa sầu đa cảm hơn đối với các sự vật sự việc. Cơi trầu với những miếng trầu têm cánh phượng càng trở nên đẹp đẽ, ý nghĩa và quan trọng hơn bao giờ hết trong thơ bà. Nhờ có Hồ Xuân Hương, mà những sự vật vốn chỉ là các món ăn như bánh trôi nước, miếng trầu trở nên có sức sống. Nó không chỉ là hình tượng điển hình cho số phận người phụ nữ mà còn chứa đựng những thông điệp cuộc sống, về tình yêu lứa đôi thật sâu cay.

Phân tích bài thơ Mời trầu của “bà chúa thơ Nôm” không thể không nhắc tới tài nghệ dùng nghệ thuật của tác giả. Đặc biệt là thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đây là thể thơ có quy luật nghiêm khắc về luật, niêm và vần (theo bằng trắc) và có bố cục rõ ràng. Ta có thể thấy điều này thể hiện rõ trong cách gieo vần của bài Mời trầu.

Vần ở các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Cụ thể ở đây là “hôi”, “rồi” “vôi”. Bốn câu trong bài Mời trầu được viết đúng theo thứ tự là các câu: khai, thừa, chuyển, hợp. Thật là một cách hành thơ xuất sắc và độc đáo. Chính cái tài này mà những bài thơ của bà vẫn được đông đảo độc giả đón đọc và yêu thích.

Bàn luận về “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương thì chẳng bao giờ hết chuyện. Bởi xung quanh cuộc đời bà còn vô số những giai thoại hấp dẫn. Giống như chuyện truyền kỳ về những nữ nhi thời phong kiến tuyệt sắc giai nhân nhưng lại có số phẩn long đong, lận đận.

Trên cái nền của lối thơ, biểu tượng ỡm ờ hai mặt truyền thống, bài thơ "Mời trầu" chắc hẳn không chỉ gắn với ỷ nghĩa phê phán cụ thể nào đó (nếu có), mà căn bản hơn là tiếng lòng thâm trầm sâu lắng, khát khao hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát khao mong chờ tiếng đồng vọng, hay là chiếc xương sườn thứ bảy còn vô tăm tích nơi xa.

Bài tham khảo Mẫu 2

Thơ Xuân Hương cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc, cái thanh cái tục trong thơ bà đầy ẩn ý thế nhưng người ta không thể nào không thấy được những ý nghĩa nội dung mà bà muốn truyền tải qua những câu thơ của mình. Có thể nói rằng tài năng thơ ca của bà thật xứng danh với cái tên gọi mà người đời gọi bà đó chính là bà chúa thơ Nôm. Trong số những bài thơ Nôm ấy nổi bật lên bài thơ Mời trầu mà qua đó ta thấy được những tâm sự những điều mà Xuân Hương trăn trở về cuộc đời của mình. Chuyện tình duyên và nỗi lòng người phụ nữ tài ba ấy được khắc hoạ rất rõ.

Bài thơ Mời trầu chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu là tâm sự tâm tình của người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng cả cuộc đời bà luôn bênh vực người phụ nữ cũng chính là bênh vực chính bản thân mình trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy. Qua đấy ta có thể thấy được Xuân Hương quả thật là một người mạnh mẽ, bà có tiếng nói riêng đại diện cho những người phụ nữ. bai thơ Mời trầu đã thể hiện rõ những nỗi lòng của bà chúa thơ Nôm.

Nhan đề bài thơ là Mời trầu cũng mang những ý nghĩa truyền tải nhất định. Nhan đề là sự bộc lộ chủ đề của tác phẩm chính vì thế mà mỗi nhà thơ nhà văn đều đặt cho con tinh thần của mình những cái tên mang cả nội dung lẫn nghệ thuật. Hình ảnh miếng trầu kia đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ dầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Miếng trầu ấy có quả cau, có là trầu hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Nó không chỉ đẹp mắt đẹp tâm tình mà còn đẹp cả tấm lòng người trao đi nữa. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người xở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quẹt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Sang đến hai câu thơ sau thì thi sĩ muốn gửi đến những lời nhắn nhủ cho những bậc quân tử trên cõi đời này rằng:

Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá bạc như vôi

Chính nỗi khao khát tình yêu khiến cho nhà thơ mong muốn rằng người quân tử nếu có duyên với Xuân Hương thì bén lại chứ đừng bạc như vôi xanh như lá. Cái duyên trên cõi đời này được người xưa vô cùng tin vào nó. Không có duyên thì có gần gũi đến mấy cũng không thể nào có tình cảm yêu thương được nhưng có duyên thì lại thắm lại ngay. Không gần cũng yêu thương da diết vô bờ. Thi sĩ nói đừng xanh như lá bạc như vôi là có ý gì?. Lá cây bao giờ chẳng xanh, không xanh thì đâu còn là lá cây nữa. vôi thì màu trắng bạc rồi. Có thể nói ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp so sánh kết hợp với lối nói cái tự nhiên vốn có để chỉ cái mong muốn trong tình yêu của con người. lá xanh thì tốt, vôi trắng bạc là đương nhiên nhưng con người mang những trạng thái đó thì không tốt. Bởi vì cái xanh cái bạc kia là để chỉ sự xanh rờn, sự bạc bẽo của con người với nhau. Chính vì thế Xuân Hương mượn ngay hình ảnh của lá trầu, vôi trắng mà gửi thầm cái nguyện ước nhắn nhủ của bản thân mình.

Bài thơ như một dòng nhật kí của thi sĩ, Xuân Hương đã viết vào đó những tâm tư tình cảm của mình. bà là luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Bài tham khảo Mẫu 3

Nhiều người làm thơ về tình yêu. Nhiều nhà thơ được mệnh danh là “ thi sĩ của tình yêu”. Trong thơ của mình, họ thể hiện những cảm xúc, suy tư, những yêu thương, trăn trở…Những bài thơ tình là những cung bậc, những nỗi niềm riêng, khao khát hạnh phúc, yêu thương giận hờn…Những nhà thơ nữ lại có một cách thể hiện nội tâm hết sức nhạy cảm, tinh tế. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính – được thể hiện một cách chân tình.

Đi qua cuộc đời của Hồ Xuân Hương có khá nhiều người bạn tình nhưng cuối cùng vẫn không được bền lâu. Tình cảm xao xuyến của thời tuổi trẻ cùng những lời giỡn cợt của Chiêu Hổ, thoắt lại là cái kiếp làm lẽ tủi nhục trăm bề trong sự lạnh lẽo của Tổng Cóc. Bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường cũng chỉ là mộng ảo ngắn ngủi. Trái tim yêu thương của Xuân Hương tưởng chừng tan nát vì sự trớ trêu đến thế. Bao đêm trường ôm hận một mình, xót xa tự an ủi Thân này đâu đã chịu già tom Xuân Hương đã cảm thấy chua chat, cay đắng cho mình cho những cuộc tình.

Bài thơ Mời trầu có lẽ ra đời trong giai đoạn nữ sĩ dựng quán nước kén bạn trăm năm. Thực ra, Xuân Hương đã ý thức được mình, đến độ chín chắn, cần một bạn chi kỷ hơn là những yêu đương nồng cháy thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, nữ sĩ đã cảm nhận được sự lạnh giá cô đơn, rất cần một sự động viên an ủi, những lời nói tâm tình.

Rất trung thực, khiêm tốn và chân thành, Hồ Xuân Hương đã nói về mình hết sức thẳng thắn.

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi.

Chỉ bình thường thế thôi, như bao điều đơn giản khác. Nhưng trong cái đơn giản ấy ẩn chứa một điều gì sâu xa. Đừng vội lầm tưởng ý xuân của Xuân Hương. Vâng, cái nho nhỏ, cái hôi ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài thôi. Xuân Hương đã lấy cái hồn dân tộc Việt Nam thanh cao cau trầu keo sơn gắn bó mà nói về tình yêu của mình, độc đáo và thi vị. Nhưng, độc đáo tất có phong cách riêng – phong cách Hồ Xuân Hương.

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Một cách thể hiện cái tôi của mình rất chuẩn nhị, độc đáo mà lại duyên dáng. Nhà thơ tự trải lòng mình, bày tâm tư, tình cảm một cách chân thật. Không! Tôi không hề giải dối hình thức. Một cách khách thể hóa cũng lạ kỳ, cảm động làm sao. Cái chân thành của Xuân Hương, như thế là đã hết mức rồi. Trong câu thơ còn mang một cách nói mới lạ, rất Xuân Hương: quệt. Một động từ độc đáo, chỉ ở con người cũng độc đáo, đầy cá tính một cách chặt chẽ, người đọc cảm thấy thú vị và yêu hơn cái quệt dễ thương, thấm đẫm tình ý ấy. Những động từ khác, giả sử được đưa vào thay thế, có lẽ và chắc chắn rằng không thể lột tả được cái ý, cái tình mà câu thơ gửi gắm.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Có phải duyên nhau – người ấy cùng tâm sự sẽ hiểu được Hồ Xuân Hương cần gì ở chữ duyên ấy.

Một người đồng cảm để cùng xướng họa, ngâm thơ, chia sẻ những buồn vui cuộc sống, một người bạn tri kỷ tri âm để có thể gắn bó, tin tưởng và yêu thương hết lòng. Trái tim người phụ nữ này chỉ cần như vậy mà cảm thấy sao quá đỗi khó khăn, xa vời. Nhiều lầnh cũng muốn dứt cho xong nhưng trái tim vẫn không ngừng khao khát, không ngừng ước muốn. Xuân Hương trong tình yêu, càng đắm say càng lo sợ một sự cách chia, phai bạc, dường như những người yêu tha thiết thường hay sợ một ngày mai không còn được nguyên vẹn tươi thắm như buổi ban đầu. Đọc kỹ hai câu thơ mới biết chủ ý của nhà thơ sợ người tình đến với nhau không bằng tất cả tình yêu và tấm lòng xanh thắm bền chặt. Như thế, còn gì đau đớn bằng ! Người như “ con thỏ giỡn với bóng trăng” ấy phụ cả một niềm tin chân thành thì còn biết gì để nói nữa. Ca dao ngày xưa viết “ tưởng giếng nước sâu Em nối sợi gầu dài – Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”. Sự hòa hợp không gìn giữ một tình yêu chân thật thủy chung. Bài thơ gợi cho người đọc mối thương cảm đến xót xa. Ta bỗng trăn trở tự hỏi, lẽ nào một người như Hồ Xuân Hương mà ước nguyện chính đáng, thường tình lại không thành?

Bởi thế, trước những ngang trái trong đường tình duyên, trái tim khắc khoải, yêu nồng nàn của Xuân Hương lên tiếng đòi hỏi chính đáng. Đòi hỏi như vậy cũng chưa phải là nhiều lắm đâu. Ai yêu tâm hồn, tình cảm Hồ Xuân Hương bằng tất cả tâm hồn và tình cảm chân thành của mình, chắc chắn sẽ được nữ sĩ đón nhận – Hồ Xuân Hương tối kỵ sự giả dối, trong tình yêu không có sự giả dối, Hãy đến với nhau bằng tình yêu nồng thắm, chân thành, như thế cuộc đời, con người và tình yêu mới thực sự có ý nghĩa. Bài thơ Mời trầu, tình yêu của Hồ Xuân Hương đang chào mời. Người yêu thơ, yêu Hồ Xuân Hương, hãy đón nhận.


Cùng chủ đề:

Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật, thơ trào phúng, thơ nói chung) lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Cảnh khuya lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Chạy giặc lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Lai tân lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Mời trầu lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Nam quốc sơn hà lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Rằm tháng giêng lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Thiên trường vãn vọng lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Thu điếu lớp 8