Viết bài văn phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang lớp 8 — Không quảng cáo

Tổng hợp 50 bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài


Viết bài văn phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang lớp 8

1. Mở đoạn: - Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang.

Dàn ý chi tiết

1. Mở đoạn:

- Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang.

2. Thân đoạn:

a. Hai câu đề:

- Thời gian: “bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả, vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng.

- Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng.

Điệp từ: “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống.

=> Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

b. Hai câu thực:

- Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện:

Nghệ thuật đảo ngữ:

Lom khom - tiều vài chú: hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi.

Lác đác - chợ mấy nhà: hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông.

=> Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh.

c. Hai câu luận: - Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa).

- Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

=> Hai câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan.

d. Hai câu kết:

- Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông).

- Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” - đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi.

=> Hai câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn.

3. Kết đoạn:

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang.

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những bài thơ của bà có thể kể đến Qua Đèo Ngang.

Bài thơ được mở đầu bằng những hình ảnh thiên nhiên đèo Ngang tràn đầy sức sống:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Nhân vật trữ tình bước đến đèo Ngang vào thời điểm “bóng xế tà”. Thiên nhiên đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp trần đầy sức sống. Biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra sự trỗi dậy của thiên nhiên.

Trong nền bức tranh thiên nhiên, con người đã xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với đối trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi cùng mấy căn nhà nhỏ lác đác. Tác dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn, bát ngát để làm nổi bật lên nỗi cô đơn của nhân vật trữ tình.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa) mà còn gợi âm thanh “quốc quốc”, “đa đa” da diết, bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

Và rồi nhà thơ đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn với “một mảnh tình riêng” không có người chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Thiên nhiên rộng lớn bao nhiêu, tác giả càng nhỏ bé bấy nhiêu. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả.

Như vậy, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan rất giàu giá trị. Tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự của bản thân vào bài thơ.

Bài siêu ngắn Mẫu 2

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam trung đại. Trong đó, tác phẩm Qua Đèo Ngang đã mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ, cũng như gửi gắm thông điệp giá trị.

Mở đầu bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ nhưng vẫn tràn đầy sự sống:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Câu thơ đầu tiên gợi mở về không gian, thời gian. Nhân vật trữ tình đến đèo Ngang khi “bóng xế tà” là thời điểm kết thúc của một ngày. Lúc này, vạn vật đã trở về nghỉ ngơi. Cảnh vật đèo Ngang hiện lên ở câu thơ thứ hai. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy mãnh liệt.

Ở hai câu thơ tiếp, con người xuất hiện nhưng lại vô cùng nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” nhấn mạnh vào hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi và vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Con người chỉ là một chấm buồn nhỏ bé giữa vũ trụ rộng lớn.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hai câu thơ tiếp bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đây, “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa) mà còn gợi tả âm thanh của loài chim này - “quốc quốc”, “đa đa” vang lên nghe sao da diết, xót xa. Không chỉ vậy, khi ghép lại hai từ “quốc” và “gia” lại sẽ thành “quốc gia” như một lời bộc lộ gián tiếp tình yêu dành cho đất nước.

Lúc này đây, nhân vật trữ tình đang đứng một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước. Sự cô đơn bao trùm lấy toàn bộ không gian. Cụm từ “một mảnh tình riêng” ý chỉ tình cảm riêng tư không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Ta từng bắt gặp trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” chỉ càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của nhân vật trữ tình hay chính là của tác giả.

Bài thơ Qua Đèo Ngang là lời bộc lộ nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như xót xa trước cảnh ngộ đất nước của Bà Huyện Thanh Quan. Nội dung và nghệ thuật bài thơ khá ấn tượng, mang dấu ấn sáng tác của nhà thơ.

Bài siêu ngắn Mẫu 3

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học trung đại. Tác phẩm nổi tiếng của bà phải kể đến bài thơ Qua đèo Ngang.

Mở đầu bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã gợi mở ra về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Nhân vật trữ tình tới đèo Ngang khi màn đêm đã dần buông xuống - thời điểm mà vạn vật cũng như con người trở về nhà để sum họp, nghỉ ngơi sau một ngày. Từ đó sự cô đơn càng được bộc lộ rõ hơn.

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá - lá” cùng với vần chân “tà – hoa” cho thấy vạn vật đang trỗi dậy. Thiên nhiên nơi đèo Ngang hoang vu nhưng vẫn tràn đầy sức sống.

Và trong bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện mang vẻ nhỏ bé, chỉ là một chấm buồn lặng lẽ:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Từ láy “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé, thưa thớt của con người. Nhà thơ sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo.

Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp với đối ở hai câu luận:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta”

Ở hai câu kết, tác giả đã bộc lộ nỗi niềm cô đơn sâu sắc. Một mình nơi đèo Ngang rộng lớn, hoang vu trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Cụm từ “ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người.

Qua Đèo Ngang mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan. Qua tác phẩm, nhà thơ cũng gửi gắm lòng yêu quê hương, đất nước.

Bài tham khảo Mẫu 1

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.

Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta"

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.

Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.

Bài tham khảo Mẫu 2

Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh:

“Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp.

Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn.

Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình: núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút.

Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện: chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa.

Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà.

Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả.

Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối.

Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả.

Qua bài thơ “Qua Đèo Ngang” ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.

Bài tham khảo Mẫu 3

Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhằm gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung) đã sáng tác bài Qua đèo Ngang.

Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này. Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương. Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống.

Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng.

Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”

Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ.

Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?!

Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc.


Cùng chủ đề:

Viết bài văn phân tích tác phẩm Chạy giặc lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Lai tân lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Mời trầu lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Nam quốc sơn hà lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Rằm tháng giêng lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Thiên trường vãn vọng lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Thu điếu lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Thương vợ lớp 8
Viết bài văn phân tích tác phẩm Tiến sĩ giấy lớp 8