Bình giảng bài thơ Vội vàng trong tập Thơ Thơ (1938)
Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn.
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ của
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
……
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Mỗi lần những dòng thơ trên, nhạc điệu Vội vàng cứ ngân vang dào dạt mải trong lòng ta, tình yêu đời, yêu sống như tát mãi không bao giờ cạn. Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ... như những lớp sóng vỗ vào tám hồn ta. Vội vàng là bài thơ độc đáo nhất, mới nhất của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập Thơ thơ (1933-1938) - đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh một tài thơ thế kỉ.
Bài thơ Vội vàng nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.
Bài thơ là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên đồng nội xanh ri, của lá cành tơ phơ phất. Tuần tháng mật của ong bướm. Khúc tình si của yến anh. vỏ này đây ánh sáng chớp hàng mi. Chữ này đây được năm lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng tắt nắng đi và buộc gió lại. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc Thần vui hằng gõ cửa. Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, ngon như một cặp môi gần. Một chữ ngon chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đấy là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi - cái tuổi thanh niên bừng sáng, nhưng thi sĩ đã vội vàng một nửa - cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, thơ cố không hề có. Như một tuyên ngôn vội vàng:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã vội vàng... Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc, bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái lượng trời cho một đời người chi có một thời xuân mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới - qua, non — già, hết – mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn – để khẳng định một chân lí - triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.
Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đáng có lại đang mất dần đi.
Và mối tương giao màu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi, hoặc tiễn biệt, phải hờn vì xa cách, phải sợ vì độ phai tàn sắp sửa. Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian:
Mùi tháng năm đểu rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cũng là gió, là chim... nhưng gió khẽ thì thào vì hờn, còn chim thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian.
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bày đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nối - lo lắng và chợt tỉnh mùa chưa ngả chiều hôm nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luông cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ! ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau di thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở muốn tắt nắng đi. Kết thúc bài thơ là ta, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm đà màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: Ta muốn ôm, Ta muốn riết, Ta muốn say, Ta muốn thâu:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc. Say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ảnh sáng, thanh sắc, xuân hồng... đều là nỗi niềm khao khát của thi nhân:
Cho chênh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Sống vội vàng không có nghĩa là sóng gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ Vội vàng ra dời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới thơ lãng mạn 1932-1941.
Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện giữa cuộc đời và hát ca:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!