Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô — Không quảng cáo

Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Bài 5: Nhân vật và xung đột trong bi kịch - Văn mẫu 11


Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô

I. Mở bài - Vài nét về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Trong tác phẩm, tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô chắc chắn đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Vài nét về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

- Trong tác phẩm, tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô chắc chắn đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả

II. Thân bài

1. Thế nào là bi kịch?

- Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người

- Bi kịch của Vũ Như Tô: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật cao cả với hiện thực đời sống của nhân dân

2. Bi kịch của Vũ Như Tô

a. Bi kịch bởi khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô mâu thuẫn với hiện thực đời sống

- Vũ Như Tô là người nghệ sĩ tài ba với lí tưởng nghệ thuật cao cả

+ Là người “ngàn năm chưa dễ có một”

+ Tài năng của ông được thể hiện: “chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện lên”, “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”

+ Mong muốn và hòa bão của ông chính là xây dựng cho đát nước một tòa lâu đài vĩ đại và bền vững khát khao cống hiến tài năng cho đất nước - Tuy nhiên, bi kịch ở chỗ, khát vọng nghệ thuật cao cả ấy của Vũ Như Tô mâu thuẫn với hiện thực đời sống của nhân dân

+ Vì quá đam mê và chạy theo lí tưởng nghệ thuật của mình, Vũ Như Tô quên mất rằng chính việc xây Cửu Trùng Đài đã cướp đi mồ hôi, nước mắt và tính mạng của bao nhiêu người

Lí tưởng, ước mơ xây một tòa đài cao cả, nguy nga, tráng lệ lại cao siêu, thuần tuý hoàn toàn thoát li khỏi hoàn cảnh lịch sử xã hội của đất nước, xa rời đời sống nhân dân Bi kịch

b. Bi kịch bởi trong thời khắc nhân dân khởi loạn, Vũ Như Tô vẫn đắm chìm trong mộng tưởng Cửu Trùng Đài

- Quân khởi loạn Trịnh Duy Sản giết chết Lê Tương Dực, Đan Thiềm tỉnh táo nhận thức thức sự việc nên khuyên Vũ Như Tô trốn đi Vũ Như Tô vẫn u mê chưa hiểu:

+ Ông hỏi lại : “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”

+ Ông vẫn cho là “họ hiểu nhầm” mình và khẳng định thêm lần nữa: “Tôi không trốn đâu”

- Khi bị quân sĩ vả miệng, ông vẫn không ngừng say mê về Cửu Trùng Đài: “Đài Cửu trùng sẽ hoàn thành, cao cả, huy hoàng giữa cõi trần lao lực, một cảnh Bồng Lai”

- Ông nhất mực cho rằng mình không có tội mà chỉ có công. Luôn tin vào việc làm chính đại quang minh của mình, và hi vọng sẽ thuyết phục được An Hòa hầu

Vũ Như Tô cho đến gần cuối vẫn u mê tin vào mộng tưởng hoài bão của mình mà vẫn không hiểu rằng nhân dân đã vì thứ mộng tưởng ông cho là cao cả mà đổ mồ hôi, công sức và cả tính mạng Bi kịch

c. Bi kịch bởi khi nhận ra được khát vọng nghệ thuật của mình mâu thuẫn với hiện thực thì Cửu Trùng Đài đã bị đốt

- Khi Cửu Trùng Đài bị đốt, Vũ Như Tô vẫn nói: “Vô lí! Vô lí”

- Vỡ mộng, Vũ Như Tô chỉ rú lên căm giận: “Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”

- Mộng lớn tan tành cùng Đan Thiềm, người nghệ sĩ tài hoa phải chịu số phận ra pháp trường

Vũ Như Tô là một nhân vật chịu nhiều tấn bi kịch

III. Kết bài

- Khái quát lại tấn bi kịch mà Vũ Như Tô phải gánh chịu trong tác phẩm

- Bi kịch của Vũ Như Tô đặt ra bài học về khát vọng nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính chỉ có thể tồn tại nếu không đi ngược lại với thực tế đời sống

Bài tham khảo Mẫu 1

Nguyễn Huy Tưởng là nhà viết kịch tài năng, một trong những kịch gia xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, trong đó nổi bật hơn cả là tác phẩm Vũ Như Tô. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Vũ Như Tô một nhà kiến trúc tài năng, nhưng vì mượn quyền lực và tiền bạc của bạo chúa để thực hiện khát vọng nên ông rơi vào bi kịch. Bi kịch đó được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”.

Bi kịch có thể hiểu là tình cảnh chứa đựng những éo le, mâu thuẫn dẫn đến đau thương mất mát. Bi kịch đó khiến con người ta không thể giải quyết được, buộc phải tìm đến cái chết, hoặc bị buộc phải nhận cái chết. Chỉ khi đó bi kịch mới có thể được giải quyết.

Vũ Như Tô cũng rơi vào bi kịch không thể hóa giải nổi, ông vốn là người nghệ sĩ tài năng, luôn ôm ấp khát vọng nghệ thuật cao cả song lại mâu thuẫn với thực tại phũ phàng. Chính điều đó đã đẩy ông vào bi kịch.

Trước hết, Vũ Như Tô là một người có tài năng siêu việt, là người kiến trúc sự tài bà, điều đó được thể hiện rõ qua lời nhận xét của Lê Tương Dực: “một tài năng khác thường, một nhà kiến trúc, một tay hội họa thần tình, một kiến trúc sư có khả năng xây những những lâu đài tráng lệ mà không hề tính sai một viên gạch” tài năng của ông đến độ “chỉ cần vẩy bút là chim, hoa đã hiện trên mảnh lụa, thần tình biến hóa như cảnh hóa công”. Không chỉ vậy, ông còn mang trong mình khát vọng cao cả, lớn lao, đem hết tài năng của mình để xây dựng một công trình tuyệt mĩ, “tranh tinh xảo với hóa công”. Xây dựng Cửu Trùng Đài vừa là cơ hội để ông bộc lộ tài năng, đồng thời cũng giúp ông thực hiện khát vọng cao cả của bản thân, đây chính là tâm huyết cả đời của ông.

Vũ Như Tô còn là người có bản lĩnh vững vàng, không sợ cường quyền. Lê Tương Dực đã yêu cầu ông xây dựng cửu Trùng Đài, nhưng ông không khuất phục, ngay cả khi bị dọa sẽ giết chết, Như Tô vẫn không thuận ý. Chỉ vì nghe lời khuyên giải của Đan Thiềm, Vũ Như Tô mới chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài để điểm tô cho đất nước. Nhưng thực tế đời sống lại trái ngược hoàn toàn với lí tưởng cao siêu của ông. Nếu ông xây dựng Cửu Trùng Đài với mong muốn khiến cho đất nước đẹp hơn, thì tên vua vô đạo Lê Tương Dực lại chỉ muốn sử dụng công trình nghệ thuật ấy để ăn chơi, trác táng. Cũng bởi Vũ Như Tô không nhận ra điều ấy nên khi xây dựng Cửu Trùng Đài ông gặp phải mâu thuẫn lớn với nhân dân lao động. Cửu Trùng Đài được xây nên từ mồ hôi, xương máu, từ của cải của nhân dân. Như Tô từ chỗ cùng một chiến tuyến với nhân dân lao động trở thành kẻ đối nghịch, bị người ta căm ghét đến tột cùng. Tình cảnh khốn cùng ấy tất yếu sẽ dẫn đến những cuộc nổi loạn để phá hủy Cửu Trùng Đài và tiêu diệt người đã tạo ra nó.

Trong đoạn trích này, Vũ Như Tô lâm vào bi kịch bị hiểu nhầm và kết tội. Mục đích ban đầu của ông là lợi dụng tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện khát vọng nghệ thuật cao cả, nhưng cuối cùng ông lại bị đánh đồng là kẻ thù ác: “ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông”. Như vậy, Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài trở thành mục tiêu tiêu diệt của những kẻ phản loạn. Dù ông vẫn luôn mang trong mình niềm hi vọng, lấy hết lời lẽ để giải thích với viên quan An Hòa Hầu: “Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây dựng cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”. Nhưng tất cả họ chỉ nhìn thấy ở ông sự ngông cuồng, điên rồ. Chỉ duy nhất có Đan Thiềm là người hiểu được những khát vọng và mục đích cao đẹp của ông, nhưng bà cũng hoàn toàn bất lực. “Lỗi lầm của Vũ Như Tô là lỗi lầm của người nghệ sĩ tưởng rằng có thể thực hiện khát vọng nghệ thuật của minh trong cuồng vọng của bạo chúa […] Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ khát khao sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khát khao đó” (Tất Thắng).

Không chỉ vậy, bi kịch của Vũ Như Tô còn là bi kịch vỡ mộng. Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, trước khi bị dẫn ra pháp trường, tự bản thân Vũ Như Tô vẫn không hiểu vì sao lại phá Cửu Trùng Đài, ông đã làm gì để nhân dân căm hận. Ông chỉ có một mục đích duy nhất đó là xây một “cảnh Bồng Lai” cho đất nước. Vậy việc ông làm có gì là sai? Cái sai của ông chính là chỉ làm nghệ thuật thuần túy mà không hề quan tâm đến đời sống nhân dân. Ông không biết rằng vì xây dựng Cửu Trùng Đài mà biết bao gia đình phải li tán, vợ mất chồng, con mất cha,… cuộc sống người dân điêu linh, cực khổ. Ông trở thành kẻ ác, kẻ cô đơn nhất trong hành trình nghệ thuậ của mình. Cửu Trùng Đài bị tiêu hủy, ông vỡ mộng, đau đớn đến tuyệt vọng: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! ÔI Cửu Trùng Đài” “Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường”.

Bi kịch của Vũ Như Tô xuất phát từ việc ông nhận thức sai lầm, không nhận thấy mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Vũ Như Tô luôn chìm đắm trong niềm say mê sáng tạo nghệ thuật, ông chỉ hướng đến khao khát duy nhất của mình, mượn tay kẻ ác để xây dựng Cửu Trùng Đài. Khát vọng của ông là cao đẹp song nó lại không phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Chính điều ấy đã khiến ông trở thành phe đối địch với nhân, trở thành kẻ ác và là mục tiêu hướng đến để tiêu diệt. Vũ Như Tô là điển hình của người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại đi ngược với lợi ích nhân dân nên lâm vào bi kịch bi thương. Bi kịch của Vũ Như Tô đã góp phần thể hiện những vấn đề sâu sắc của cuộc sống muôn đời: cái đẹp, nghệ thuật bao giờ cũng phải bám rễ và phục vụ đời sống nhân dân. Nó sẽ chết yểu, sẽ bị tiêu diệt khi nó hoàn toàn chỉ là thứ nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật chân chính bao giờ cũng phải là nghệ thuật vị nhân sinh.

Bằng việc xây dựng bi kịch của Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Lớp ngôn từ cô đọng, mang tính tổng hợp cao. Nhịp điệu linh hoạt, gấp gáp diễn tả được không khí khẩn trương lúc bấy giờ. Đồng thời kịch tính được đẩy lên cao trào giúp thể hiện tính cách nhân vật sinh động, rõ nét.

Qua bi kịch của Vũ Như Tô ta có thể thấy rằng ông là người tiêu biểu cho lớp nghệ sĩ có tài năng, có hoài bão cao cả song xa rời thực tế nên lâm vào bi kịch đau đớn. Cái chết của ông là bài học cho nghệ thuật muôn thế hệ sau, nghệ thuật bao giờ cũng phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, xuất phát và phục vụ lợi ích con người. Chỉ khi dung hòa được hai khía cạnh đó thì nghệ thuật và người nghệ sĩ mới có thể tồn tại, phát triển.

Bài tham khảo Mẫu 2

Mỗi tác phẩm đều được xây dựng lên bởi những nhân vật điển hình và trong tác phẩm Vĩnh Biệt Cửu trùng đài là một tác phẩm như thế, nó khắc họa sâu sắc hình tượng người nghệ sĩ Vũ Như Tô. Tác phẩm đã để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc bởi những hình ảnh hấp dẫn, sinh động, trong đó chúng ta cần phải giải quyết vấn đề giữa hình tượng người nghệ sĩ với nghệ thuật được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm. Mỗi tình huống để lại cho người đọc nhiều day dứt trước tấm bi kịch nhiều máu và nước mắt của Vũ Như Tô.

Vốn là một người nghệ sĩ tài hoa, với những lý tưởng cao đẹp vì nghệ thuật, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật này với lý tưởng cách mạng, hình ảnh đó cũng để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm, trước lý tưởng và nghệ thuật bị thiêu trụi trước những lý tưởng và đời sống thực tại của nhân dân. Hình tượng người nghệ sĩ xuất hiện trong tác phẩm đã làm tăng lên sự hấp dẫn bởi hình ảnh một tượng đài nguy nga tráng lệ được xây dựng lên, tuy nhiên nó cũng để lại cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc nhất về hình tượng của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp, luôn theo đuổi cái đẹp.

Vũ như Tô là người nghệ sĩ tài hoa, với ước mơ sẽ xây dựng lên một công trình nguy nga tráng lệ và dường như ông đã bỏ quên đi nghệ thuật trước tiên phải phụng sự nhân dân, xuất phát từ nhân dân. Đúng như Nam Cao đã từng nói, nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải xuất phát từ những kiếp lầm than, quả đúng như thế, nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống của nhân dân, phải đi từ những nỗi khổ đau của nhân dân. Nghệ thuật phải biết phụng sự cho cuộc sống của nhân dân. Và trong chính tác phẩm này, tác giả đã quên đi những điều đó mà chỉ đi tìm lấy nghệ thuật cao siêu, hơi xa rời với thực tiễn, nghệ thuật muốn trường tồn phải biết xuất phát từ nhân dân, phụng sự nhân dân. Nghệ thuật phải là những gì gần gũi và mang bóng dáng của nhân dân.

Nghệ thuật trong tác phẩm đã thể hiện được sâu sắc, nó sâu lắng trong từng lời văn câu chữ, với cách sáng tạo và gợi tả nên nhiều tình huống hấp dẫn, tác giả đã xây dựng được những hình tượng nhân vật điển hình, trong đó nó mang đậm nét những giá trị của nghệ thuật. Và một triết lý được đúc kết ra đó là nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải biết xuất phát từ những nỗi đau khổ của nhân dân. Chính những điều đó đã gây nên những mâu thuẫn sâu sắc nhất được thể hiện trong tác phẩm, nghệ thuật đó không đơn thuần là cái đẹp mà nó còn gắn liền với sinh mạng của nhân dân.

Để xây dựng nên một Cửu trùng đài nguy nga, tráng lệ biết bao nhiêu xương máu của nhân dân phải đổ xuống nơi đây, biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân đã rơi xuống đây, chính những điều đó đã trở thành những nỗi đau khổ mà nhân dân đang phải gánh chịu. Sự mâu thuẫn đó đã lên đến cao trào khi lý tưởng và nghệ mà Vũ NHư Tô cố gắng xây dựng đã bị dập tắt, tất cả đều bị phá vỡ, người nghệ sĩ cũng phải chịu những chua xót, đắng cay. Hình ảnh đó cũng khắc họa sâu sắc nhất hình tượng người nghệ sĩ thất bại trên con đường đi tìm nghệ thuật.

Đáng lẽ nghệ thuật nên gắn liền với những cái gần gũi, thân thương và luôn gắn liền với những khoảnh khắc của nhân dân, luôn biết phụng sự nhân dân. Một người nghệ sĩ chân chính, cũng là những người nghệ sĩ luôn xuất phát từ nhân dân, lấy dân làm gốc. Thế nên người nghệ sĩ Vũ Như Tô này mới phải chịu một bi kịch xót xa trước hình ảnh ông bị giết và cửu trùng đài cũng bị thiêu trụi hết. Hình ảnh của người nghệ sĩ thất bại trên con đường đi tìm cái đẹp cũng là nỗi xót xa khi mất đi một nhân tài. Nhưng có lẽ dụng ý mà tác giả muốn thể hiện thật sâu sắc, nghệ thuật luôn phải xuất phát từ nhân dân, từ cái nhỏ nhất, không nên đi quá xa vời và vì nghệ thuật viển vông.

Với những chi tiết hết sức tiêu biểu, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người nghệ sĩ trên con đường đi tìm nghệ thuật, nghệ thuật của lý tưởng, của cái đẹp, nhưng cuối cùng lại bị chôn vùi đi mọi thứ. Người nghệ sĩ cũng phải chịu cái kết đau đớn, nó như một án tử hình về việc xây dựng cái đẹp trên xương máu của nhân dân.

Bài tham khảo Mẫu 3

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn, nhà biên kịch tài hoa, ông có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng với đề tài viết về lịch sử, đặc biệt khi viết kịch ông thường viết vào các bi kịch để xoáy sâu vào những vấn đề nổi bật trong xã hội.

Tác phẩm đã thể hiện được quan điểm dân tộc, giữa cái chung với cái riêng, và với cái mang tính chất của cường quyền, với thế lực và lợi ích của nhân dân, tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc bởi tài năng trong việc xây dựng nên những bi kịch mâu thuẫn để làm nổi bật lên tính bi kịch trong tác phẩm. Tác phẩm đã thể hiện những mối mâu thuẫn cơ bản giữa dân chúng với triều đình, ở đây triều đình được miêu tả với những hiện thực rất đáng phê phán, triều đình chỉ chứa đựng những tên tham quan, hay ăn chơi sa đọa, thích đàn áp, và ăn chơi khi mà dựa vào xương máu của dân tộc để hưởng lạc. Mâu thuẫn đó đều bắt nguồn từ cả lợi ích đối với những thành phần dân tộc, họ có những hành động xâm hại đến các mối quan hệ xã hội.

Tiếp theo tác giả cũng đã xây dựng lên hàng vạn những chi tiết nhằm thể hiện những mâu thuẫn trong các tình huống trong câu chuyện đó là mâu thuẫn về ý tưởng của người nghệ sĩ đối với triều đình và cụ thể đó là ông vua Lê Tương Dực với Vũ như Tô trong việc xây dựng cửu trùng đài. Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ tài hoa, chính vì vậy ông luôn muốn làm nên những tác phẩm kiệt tác, nhưng không phải theo cách của vua, mà dẫm đạp lên xương máu của dân tộc để có thể hoàn thành mục đích, mục đích chính của ông vua Lê Tương Dực khi muốn xây dựng cửu trùng đài để có nơi ăn chơi hưởng lạc.

Trong tình hình nhân dân thì đói khổ, mà triều đình thì ra sức đàn áp, bóc lột để lấy tiền ăn chơi sa đọa. Tất cả các chi tiết và tình huống kịch đã tạo nên những mâu thuẫn kịch sâu sắc, sự đối lập trong các mối quan hệ thể hiện một cái nhìn mới mẻ trong các quan hệ, giữa vua tôi, và nhân dân. Trong tình hình đó dân tộc ta đã phải luôn đấu tranh để có thể dành được những lợi ích riêng, và đúng như Vũ Như Tô, ông cũng cương quyết trước hành động của triều đình. Mâu thuẫn đang chằng chéo lấy nhau, nó gần tạo nên những xung đột kịch một cách sâu sắc. Hệ quả cuối cùng của những mâu thuẫn đó là cửu trùng đài cũng bị thiêu trụi và người nghệ sĩ tài hoa như Vũ Như Tô cũng chết cùng với Cửu trùng đài.

Trong câu chuyện các đối thoại giữa các nhân vật diễn ra cũng vô cùng phức tạp, nhân vật nữ Đan Thiềm cũng có rất nhiều những cuộc đối thoại giữa nhân vật chính trong câu chuyện đó là Vũ Như Tô. Một người nghệ sĩ cả đời luôn mong muốn làm được điều gì đó để lại những công trình cho cuộc đời, và như Vũ Như Tô cũng vậy, ông luôn mong muốn đóng góp và dành sức lực của mình để xây dựng lên một kiệt tác như cửu trùng đài, nhưng ông không biết rằng để đạt được những điều đấy, ông đang xây dựng trên xương máu của rất nhiều con người. Người nông dân đang phải chịu đựng rất nhiều những cực khổ, sự áp bức bóc lột tới tận xương tủy. Khi trên con đường thực hiện nghệ thuật, ông đã quên đi quyền lợi của nhân dân, người nghệ sĩ đã không ngờ đến mục đích cao đẹp của mình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân dân như vậy. Trong câu chuyện mối quan hệ giữa các nhân vật đã diễn ra với những tình huống vô cùng chặt chẽ, nó thể hiện một tình huống và các diễn biến của câu chuyện đặc sắc và vô cùng có ý nghĩa.

Trong mối quan hệ giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm, một người nghệ sĩ chân chính như Vũ NHư Tô, mục đích chỉ là làm nên những công trình có danh tiếng cho đất nước, ông đã dùng hết những tài năng và công sức của mình trong việc xây dựng cửu trùng đài, ông chưa lường trước được hậu quả mà để thực hiện được một công trình gây ra cho nhân dân biết bao nhiêu hiểm họa, con đường và người nghệ sĩ đã day dứt trước những hành động của mình, mặc dù đó không sai khi áp dụng đối với người nghệ sĩ, nhưng khi xét trong mối quan hệ với cộng đồng nhân dân thì đó lại là những điều gây khó khăn cho dân tộc. Trước cuộc đối với thoại với Đan Thiềm, Đan Thiềm được tác giả xây dựng là một nhân vật có tâm, và luôn biết trân trọng nghệ thuật và người tài. Chính những lý do luôn muốn cái đẹp phát huy được khả năng và phục sự cho đất nước mà tác giả đã thể hiện quan điểm của mình với Vũ Như Tô trong việc xây dựng cửu trùng đài để có một nghệ thuật xuất chúng cho đất nước, nhưng cuối cùng bà đã phải chịu một tấn bi kịch khi nhận ra những lời khuyên đó đang ảnh hưởng và nó nguy hại đến toàn bộ đất nước, câu chuyện đã mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc bởi những lối suy tư và tình huống truyện hấp dẫn.

Bi kịch của các nhân vật trong câu chuyện cũng được thể hiện vô cùng mạnh mẽ, nó thể hiện một quan điểm nghệ thuật trong xây dựng kịch của Nguyễn Huy Tưởng, bi kịch của các nhân vật đều rơi vào con đường tuyệt vọng, và rồi họ đều tìm đến cái chết, chính những cái vô tình đó đã đẩy các nhân vật đến những bờ vực sâu sắc của sự sống và cái chết, cái chết đó đã mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc trong mâu thuẫn giữa người nghệ sĩ với nhân dân, và với quyền lợi của dân tộc. Khi Vũ Như Tô chết, Cửu trùng đài bị thiêu cháy, Đan Thiềm cũng cùng người tiễn biệt, bà đã từng thốt lên: " Đài lớn tan tành. Ông cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt" những lời ra đi chua xót và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

Hai nhân vật này đều là những con người yêu cái đẹp, luôn mong muốn giữ lại cái đẹp, và quý trọng nó, nhưng rồi để thực hiện mục đích của cái đẹp họ lại quên đi nhân dân, để nhân dân phải chịu những cực khổ, hai người này đã được người đọc cảm thông, bởi họ đều phải chịu những tấn bi kịch nghiệt ngã, họ phải chịu đựng những đau đớn, và nghiệt ngã từ cuộc sống, phải chịu những bi kịch. Chính tài năng và cách xây dựng tình huống kịch độc đáo đã để lại cho tác phẩm nhiều tiếng vang lớn cho cuộc sống và trên thi đàn văn học của dân tộc.


Cùng chủ đề:

Phân tích tác phẩm "Đất rừng phương Nam" lớp 11
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Phân tích tác phẩm “Bước đường cùng” lớp 11
Phân tích tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi bị Thị nở từ chối
Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô
Phân tích tình huống truyện lạ và éo le mà Kim Lân đã xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt
Phân tích tình yêu trong bài thơ Thuyền và biển
Phân tích truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân
Phân tích và chứng minh hai câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề của tác phẩm
Phân tích văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ"