Soạn bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu SGK Ngữ văn 8 tập 1 Kết nối tri thức - siêu ngắn
Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm mục đích gì?
Nội dung chính
Bài thơ ghi lại cảnh “nhập trường” vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước, giao thời nhốn nháo, nhố nhăng. |
Trước khi đọc 1
Câu 1 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm mục đích gì?
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức lịch sử và văn học để trả lời
Lời giải chi tiết:
Mục đích: tìm kiếm nhân tài phục vụ cho triều đình và giúp ích cho đất nước.
Trước khi đọc 2
Câu 2 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Sau cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục,…) thường sẽ có một buổi lễ xướng danh và trao giải. Mục đích của lễ xướng danh là gì?
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức lịch sử và văn học để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Mục đích: tôn vinh, khen ngợi những người thi đỗ được đề tên trên bảng vàng.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Bố cục bài thơ gồm mấy phần? Đó là những phần nào?
Phương pháp giải:
Đọc văn bản để xác định bố cục.
Lời giải chi tiết:
Bố cục bài thơ gồm 4 phần. Đó là đề - thực - luận - kết.
- Đề (2 câu đầu): Chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX
- Thực (2 câu tiếp): Hình ảnh các sĩ tử khi đi thi
- Luận (2 câu tiếp): Hình ảnh những ông bà lớn
- Kết (2 câu cuối): Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Hai câu thơ đề cho biết điều gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
Phương pháp giải:
Đọc nội dung hai câu thơ đề để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Hai câu đề đã phơi bày cả sự đổ nát của kỳ thi quốc gia và phê phán nhà nước vô trách nhiệm.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu rõ tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc tái hiện hình ảnh các sĩ tử và quan viên người Việt.
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức về biện pháp tu từ và văn cảnh để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Biện pháp tu từ đảo ngữ đã nhấn mạnh được không khí lôi thôi, nhếch nhác trong ngày thi đồng thời thể hiện thái độ khinh ghét của tác giả.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Phân tích tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực.
Phương pháp giải:
Xác định phép đối và phân tích tác dụng.
Lời giải chi tiết:
Phép đối: “lôi thôi sĩ tử” >< “ậm ọe quan trường” => cho thấy sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi dù đây là một kì thi Hương quan trọng.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Tiếng cười trào phúng được thể hiện như thế nào qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm ?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ các câu thơ có hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm để chỉ ra tiếng cười trào phúng
Lời giải chi tiết:
- Sự xuất hiện của quan sứ và mụ đầm không làm quan trường trang nghiêm mà lại trở nên náo loạn, nhố nhăng
- Quyết định số phận sĩ tử lại là những kẻ không biết gì về Nho học.
Sau khi đọc 6
Câu 6 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ những đối tượng nào? Em cảm nhận được thái độ gì của tác giả qua lời nhắn nhủ ấy?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ tác phẩm để trả lời.
Lời giải chi tiết:
- “Nhân tài đất Bắc” tức là ám chỉ tầng lớp trí thức.
- Thái độ: đay nghiến mà xót xa nhằm thức tỉnh họ
Sau khi đọc 7
Câu 7 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng cho em nhiều nhất? Vì sao?
Phương pháp giải:
Trình bày về nhân vật mà em ấn tượng và lý giải nguyên nhân.
Lời giải chi tiết:
Nhân vật em ấn tướng nhiều nhất là những người sĩ tử. Vì tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch trong khi đáng ra họ phải là những thư sinh nho nhã, thanh lịch.
Sau khi đọc 8
Câu 8 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Phương pháp giải:
Hệ thống lại nội dung để xác định cảm xúc chủ đạo.
Lời giải chi tiết:
Cảm xúc chủ đạo là phê phán hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Đồng thời, giọng điệu trữ tình trong bài cũng thấm thía bao cay đắng tủi nhục.
Viết
(trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu .
Phương pháp giải:
Chọn ra chi tiết trào phúng mà em ấn tượng và viết đoạn văn phân tích.
Lời giải chi tiết:
Bài tham khảo 1:
Hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó Toàn quyền Pôn Đu-me và vợ chồng tên Công sứ Nam Định Lơ Noóc-măng đã đến dự. Các ông cử tân khoa, các ông tú mền, tú kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lạy mụ đầm “váy lê quét đất”, “trên ghế... ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kỳ long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lê quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã.
Bài tham khảo 2:
Chi tiết sĩ tử và quan trường được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội, đồng thời đây cũng là một chi tiết đầy tính chất trào phúng. Sĩ tử là người đi thi, quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ cùng với nghệ thuật trào phúng, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ “lôi thôi” này đặt ở đầu câu, gây ấn tượng mạnh, làm cho hình ảnh "vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến. “Lọ” ở đây người có người hiểu là lọ mực, có người hiểu là lọ đựng nước uống mà thí sinh phải mang theo. Dù là hiểu theo nghĩa nào, hình ảnh “vai đeo lọ” vẫn nổi lên thật mỉa mai cái vẻ xiêu vẹo, gãy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ông cử tương lai.