Soạn bài Phương pháp thuyết minh - Ngữ văn 10 (chi tiết)
Soạn bài Phương pháp thuyết minh trang 48 SGK Ngữ văn 10. Câu 2: Trong một buổi giao lưu với bạn bè quốc tế, anh (chị) muốn giới thiệu với các bạn một trong những nghề truyền thống của quê mình (trồng lúa, nuôi tằm, làm đồ gốm...)
Phần I
I - TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT MINH
- Phương pháp thuyết minh là một hệ thống những cách thức mà người thuyết minh sử dụng nhằm đạt được mục đích đặt ra. Phương pháp thuyết minh có tầm quan trọng rất lớn trong việc làm bài văn thuyết minh. Nắm được phương pháp, người viết (người nói) mới truyền đạt đến người đọc (người nghe) những hiểu biết về sự vật, sự việc, hiện tượng một cách dễ dàng và hiệu quả.
- Việc lựa chọn, vận dụng và phối hợp các phương pháp thuyết minh cần tuân theo các nguyên tắc: không xa rời mục đích thuyết minh; làm nổi bật bản chất và nét đặc trưng của sự vật, hiện tượng; làm cho người đọc (người nghe) tiếp nhận dễ dàng và hứng thú.
- Người học cần rèn luyện kỹ năng nhận thức, phân loại các phương pháp thuyết minh đồng thời rèn luyện kỹ năng vận dụng các phương pháp thuyết minh vào những bài tập cụ thể, từ đó có kỹ năng vận dụng phương pháp thuyết minh vào làm văn cũng như trong cuộc sống.
Phần II
II - MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THUYẾT MINH
Ngoài các phương pháp thuyết minh đã học ở THCS (nêu định nghĩa, liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh, phân loại, phân tích) còn có những phương pháp khác: Thuyết minh bằng cách chú thích; thuyết minh bằng cách giảng giải nguyên nhân - kết quả.
1. Ôn tập các phương pháp thuyết minh đã học
Đọc các đoạn trích (SGK trang 48, 49) và trả lời câu hỏi:
a. Cho biết tác giả mỗi đoạn trích đã sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?
- Đoạn trích (1) thuyết minh về Trần Quốc Tuấn của Ngô Sĩ Liên: Phương pháp nêu ví dụ.
- Đoạn trích (2) thuyết minh về Ba-sô của Hàn Thuỷ Giang: Phương pháp nêu định nghĩa.
- Đoạn trích (3) thuyết minh về vấn đề Con người và con số: Phương pháp dùng số liệu.
- Đoạn trích (4) thuyết minh về nhạc cụ trong điệu hát trống quân: Phương pháp phân tích.
b. Phân tích tác dụng của từng phương pháp trong việc làm cho sự vật hay hiện tượng được thuyết minh càng thêm chuẩn xác, sinh động và hấp dẫn.
- Đoạn trích (1) trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên thuyết minh về công lao tiến cử người tài giỏi cho đất nước của Trần Quốc Tuấn. Với việc sử dụng phương pháp nêu ví dụ, những tên tuổi được nêu ra (Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Thị Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực) đã làm cho vấn đề được thuyết minh trở nên rõ ràng, có sức thuyết phục.
- Đoạn trích (2) trong Thi sĩ Ba-sô và Con đường hẹp thiên lý thuyết minh về các bút danh của Ba-sô. Từ bút danh Mu-nê-phu-sa, bút danh Tô-sây đến bút danh Ba-sô, cái người đọc cần hiểu biết là nghĩa của các bút danh ấy. Nhờ việc sử dụng phương pháp nêu định nghĩa để thuyết minh mà các bút danh của Ba-sô được giải thích một cách rõ ràng.
- Đoạn trích (3) Con người và con Sớ trên tạp chí Kiến thức ngày nay thuyết minh về cấu tạo phức tạp và đồ sộ của tế bào trong cơ thể người. Với phương pháp dùng số liệu, người viết đã đi từ số lượng tế bào (40-60000 tỉ) đến số lượng phân tử cấu tạo nên tế bào (ở triệu tỉ phần tử), rồi số lượng nguyên tử cấu tạo nên phân tử (tỉ tỉ nguyên tử). Từ đó, để giúp người đọc dễ hình dung, người viết đã liên hệ tới các số liệu khác như số lượng cư dân, số lượng các vì tinh tú... và đi đến kết luận: “Nếu mỗi nguyên tử dài 1mm, một tế bào sẽ dài 10 cm, thì một người cao 1,75 m sẽ biến thành người khổng lồ với chiều cao 1.750km! May thay, điều này không xảy ra vì nguyên tử là cực nhỏ". Sức hấp dẫn của đoạn thuyết minh này chính là các số liệu. Các số liệu đã tạo nên ấn tượng sâu sắc, khó quên ở người đọc.
- Đoạn trích (4) trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng thuyết minh về các loại nhạc cụ dùng trong hát trống quán. Nhà văn đã sử dụng phương pháp thuyết minh phân tích để làm rõ tính giản dị của nhạc cụ dùng trong hát trống quân: các loại "hết thảy đều là đồ bỏ”, cách sử dụng vô cùng dân dã, nhưng âm thanh thật "giòn giã". Phương pháp thuyết minh này đã giúp người đọc hiểu được ý nghĩa của đối tượng.
2. Tìm hiểu thêm một s ố phương pháp thuyết m inh
a. Thuyết minh bằng cách chú thích
Đọc lại câu văn "Ba-sô là bút danh” đã dẫn trong phần luyện tập trước và trả lời câu hỏi (SGK, trang 50).
- Câu "Ba-sô là bút danh" không sử dụng phương pháp định nghĩa vì không đặt Ba-sô vào một loại lớn hơn, cũng không chỉ ra yếu tố nói lên đúng đặc điểm bản chất của nhà văn này. Phương pháp được sử dụng ở đây là phương pháp chú thích.
- Phương pháp chú thích và phương pháp định nghĩa có những nét khá giống nhau bởi vì về đại thể cả hai đều co cấu trúc cơ bản: "A là B". Song, hai phương pháp này có những nét khác nhau. Phương pháp định nghĩa có những đòi hỏi chặt chẽ hơn. Phần B trong định nghĩa phải đạt được hai yếu tố cơ bản. Một là phải đặt đối tượng định nghĩa vào một loại lớn hơn. Hai là phải chỉ ra yếu tố nói lên đúng đặc điểm bản chất của đối tượng để phân biệt nó với các đối tượng cùng loại khác. Phương pháp chú thích không buộc thoả mãn hai yêu cầu đó. Tuy mức độ chuẩn xác không cao nhưng bù lại phương pháp chú thích có khả năng mềm dẻo hơn, dễ sử dụng hơn.
b. Thuyết minh bằng cách giảng giải nguyên nhân - kết quả
Đọc đoạn văn tiếp tục giới thiệu về thi sĩ Ba-sô (mục 2.b. SGK, trang 50) và trả lời câu hỏi:
- Đoạn trích thuyết minh về niềm say mê cây chuối của Ba-sô và tại sao có bút danh Ba-sô. Trong hai mục đích này, mục đích thuyết minh về việc tại sao có bút danh Ba-sô là chủ yếu mặc dù được nói ngắn hơn niềm say mê cây chuối của Ba-sô. Đây chính là mối quan hệ nhân - quả. Cho dù nguyên nhân có được trình bày dài hơn nhưng nội dung thông báo chính vẫn là kết quả. Niềm say mê cây chuối là nguyên nhân dẫn đến bút danh Ba-sô.
- Đoạn trích đã được trình bày một cách hợp lý và hấp dẫn bởi vì người viết đã sử dụng phương pháp thuyết minh phù hợp đối tượng thuyết minh. Nhờ đó mà hình ảnh thi sĩ Ba-sô cùng bút danh của ông hiện lên một cách sinh động, sâu sắc.
Phần III
III - YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT MINH
1. Để lựa chọn phương pháp thuyết minh cần căn cứ vào mục đích thuyết minh.
2. Việc vận dụng phương pháp thuyết minh nhằm: đạt được mục đích thuyết minh, làm nổi bật bản chất và đặc trưng của đối tượng, làm cho người đọc/nghe dễ tiếp nhận và cảm thấy hứng thú.
Luyện tập
C âu 1 (trang 51 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Nhận xét về sự chọn lựa, vận dụng và ph ố i hợp phương pháp thuyết minh trong đoạn trích Hoa lan Việt Nam (Mục IV.I.SGK trang 51).
Trả lời:
* Đây là đoạn trích văn bản thuyết minh được viết nhằm cung cấp những tri thức về hoa lan, một loại hoa được ưa chuộng. Người viết tỏ ra có những hiểu biết thật sự khoa học, chính xác, khách quan về hoa lan ở Việt Nam. Tác giả đã phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh: chú thích, phân loại, liệt kê, nêu ví dụ... nhờ đó mà lời thuyết minh trở nên linh hoạt, sinh động và hấp dẫn:
- Phương pháp chú thích: Hoa lan được người phương Đông tôn là “Loài hoa vương giả”… nữ hoàng của các loài hoa.
- Phương pháp phân tích, giải thích: “ Họ lan được chia thành hai nhóm: nhóm phong lan… lớp thảm mục”
- Phương pháp nêu số liệu “Chỉ riêng 10 loài của chi lan Hài Vệ nữ cho thấy sự đa dạng tuyệt vời của hoa, của lá về hình dáng, màu sắc
- Ngoài ra, tác giả dùng yếu tố miêu tả hấp dẫn: “Cánh môi cong lượn như gót hài, cánh hoa trong mãnh… đang bay lượn”
=> Đoạn trích cung cấp hiểu biết, tri thức về hoa lan, loài hoa được ưa chuộng. Người viết cần có hiểu biết sự thật khoa học, chính xác, khách quan
- Tác giả phối kết hợp nhiều phương pháp thuyết minh: chú thích, phân loại, liệt kê, nêu ví dụ…
C â u 2 (trang 51 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Trong một buổi giao lưu với bạn bè quốc tế, anh (chị) mu ố n giới thiệu với các bạn một trong những nghề truyền thống của quê mình (trồng lúa, nuôi tằm, làm đồ gốm...). Hãy viết lời giới thiệu của anh (chị) thành một bài văn thuyết minh dài khoảng 500 chữ.
VD: Nghề gốm.
Gốm là một nghề truyền thống lâu đời ở nước ta. Nổi tiếng trong các làng nghề, phải kể đến làng gốm Bát Tràng ở ngoại vi thủ đô Hà Nội.
Có ba quá trình cơ bản để làm nên một sản phẩm gốm Bát Tràng là tạo cốt gốm, trang trí hoa văn, phủ men và quá trình nung. Thợ gốm lấy đất sét trong làng hoặc từ các vùng như Hổ Lao, Trúc Thôn đem về ngâm trong bể chứa nước. Đất sét được ngâm từ “bể đánh”, sau khi chín thì đánh thành dịch lỏng và đổ vào “bể lắng”. Sau khi tách khỏi tạp chất, đất sét tiếp tục được đưa sang “bể phơi” và “bể ủ”, thời gian ủ càng lâu đất càng tốt. Ủ xong, thợ gốm nặn cốt, sửa hàng và phơi khô sản phẩm. Vẽ trang trí và phủ men là công đoạn thể hiện rất rõ tài hoa của thợ gốm Bát Tràng. Họ có đến năm loại men khác nhau để phủ cho sản phẩm bao gồm men rạn, men thô, men chảy, men trơn và men lam. Cuối cùng, gốm được cho vào lò nung trong khoảng 3 ngày 3 đêm rồi mở cửa lò để nguội khoảng 2 ngày 2 đêm.
Đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục .
Nghề gốm Bát Tràng chẳng những là một nghề nghiệp quan trọng của nhân dân làng Bát Tràng mà còn trở thành biểu tượng cho các làng nghề thủ công truyền thống của nước Việt Nam ta. Sản phẩm gốm Bát Tràng ngày càng mở rộng giá trị của mình từ lĩnh vực kinh tế đến văn hóa, du lịch…