Khe chim kêu - Vương Duy
Khe chim kêu - Vương Duy bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 10
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Vương Duy (701 - 761), tự là Ma Cật.
- Quê: đất Kĩ, Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc).
- Năm 21 tuổi ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, nhưng có một thời gian dài ông sống như người ẩn dật, “mỗi lần bãi triều về là đốt hương ngồi một mình, đọc kinh niệm Phật”
2. Sự nghiệp sáng tác
- Cùng với Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy là đại biểu của phái thơ sơn thủy (thơ lấy thiên nhiên làm đề tài) thời Thịnh Đường.
- Thơ Vương Duy hiện còn hơn 400 bài.
- Phong cách thơ: tinh tế, trang nhã.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Bố cục
- Hai câu đầu: Cảnh thanh vắng, an nhàn.
- Hai câu sau: Khoảnh khắc xao động, nhiều dư âm của khung cảnh.
b. Thể loại: Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Hai câu đầu
Nhân nhà hoa quế lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không.
- Hai câu thơ đầu thể hiện hình ảnh con người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ nơi điền viên sơn thủy, hòa mình vào thiên nhiên.
- Có sự giao hòa, giao cảm một cách tự nhiên giữa người và cảnh: Trong đêm tĩnh lặng, thi nhân nghe được tiếng hoa quế rơi.
=> Cho thấy sự nhạy cảm và tĩnh lặng trong chính tâm hồn của thi nhân.
- Có sự kết hợp của ba từ " lạc " (rụng), " tĩnh " (vắng lặng), " không " (vắng không) => gợi sự tịch mịch của cảnh đêm nơi rừng núi.
=> Cảnh và người thật hòa hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn.
b. Hai câu thơ sau
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh giản tại trung.
- Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động.
- Ánh sáng của ánh trăng lan tỏa làm kinh động đến tiếng chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, giật mình, thảng thốt. Ánh trăng lên không tiếng động vậy mà cũng làm chim núi giật mình, điều đó cho thấy cảnh yên đến mức chỉ một sự thay đổi nhỏ cũng đủ làm khuấy động sự yên tĩnh.
- Hai câu thơ dường như có sự chuyển dịch từ không gian tính và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng (trăng lên) và âm thanh (chim núi cất tiếng kêu) làm tô điểm thêm cho sự tĩnh lặng của cảnh vật.
=> Nhà thơ lấy cái động để thể hiện cái tĩnh - sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn
c. Giá trị nội dung
- Khe chim kêu là bài miêu tả cảnh thanh nhàn, yên tĩnh của một vùng núi hoang sơ.
- Cảnh đẹp như một bức tranh với những âm thanh của hoa quế rụng, trăng lên hay là tiếng chim kêu thảng thốt trong màn đêm tĩnh lặng.
d. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy hình gợi âm.
- Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, tinh tế.