Văn bản Cà Mau quê xứ
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi “Đi làm gì?”. Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu “Đi chơi.”.
Cà Mau quê xứ
(trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi “Đi làm gì?”. Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu “Đi chơi.”.
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói “Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nợ”. Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hoà bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chống loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than được đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: “Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng Cá thòi lòi dạn di theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?”. Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ “Đạo phát cỏ” dóc tô đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lại Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bùng muốn khổ quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông chúng tôi hì hục lỗi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... dốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây được, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà.
Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đợt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận 2.
Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hoá Mũi Cà Mau bật cười
“Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!”. Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
– Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! “Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay”.
- Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày - chàng thi sĩ thầm thì – “Giang hồ như... người giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà. Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ “quê nhà” ấy của thi sĩ đất Bắc Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là “quê xứ. Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang Cần Thơ, Hậu Giang xuống Sóc Trăng Bạc Liêu,.. rồi xuống miệt biển Kiên Giang ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh.., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lỗi tới thổ một một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: “Xứ”? “Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng xứ ấy qua đây mất gần một buổi đờ” – cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai dứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. “Tui từ xứ Bạc Liêu qua” – ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
“Em đi lấy chồng về nơi xứ xa” – lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. “Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu”. Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long - tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
…Giờ thì mấy anh ern tới ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng 2 lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây được. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rổn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng loại nhì 23.000 đồng loại vật chỉ 6 000 đồng Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoản thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đồng rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Carn-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn…
- Ngưng tay làm với anh em một li, anh Bal - Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xể lại “xây chừng” một li rồi đứng dậy:
– Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[..] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy.
Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tưng tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nổi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây được đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà “Phó Mũi” Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây được. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn “ôm gốc được”, cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông
tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người.[..] “Phó Mũi”Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: “Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn được thì còn gì nữa đâu”.
Tôi ngồi đó, chợt hình dung về những trái được bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái được đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân được mới.
Về Sài Gòn, tôi lẫn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kỉ Vẫn cái tiếng dội Cà Mau ấy, trong đó vi đất Mũi này như “ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm”. Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: “Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng”. Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khi khà rật chất Cánh đồng hoang: “Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó”.
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại(4)? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời.
Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ. Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than được của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn – Cộng ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017,tr. 162 – 169)