Văn bản Cây diêm cuối cùng
Câu chuyện chiến tranh mà tôi sắp kể ra đầy xảy ra trên một đỉnh núi cao của dãy Hy Mã Lạp Sơn cách đây gần nửa thế kỉ.
Cây diêm cuối cùng
(Trích Chuyện trò)
Cao Huy Thuần
Câu chuyện chiến tranh mà tôi sắp kể ra đầy xảy ra trên một đỉnh núi cao của dãy Hy Mã Lạp Sơn cách đây gần nửa thế kỉ. Phe tôi và phe địch chạm trán nhau trên một dãy núi non mà biên giới cùng vô định như máy trên trời.
Chúng tôi năm người di tuần lúc mở sáng chạm phải địch hai bên nổ súng dịch đồng hơn, chúng tôi tháo lui. Ý định của chúng tôi là đánh cầm chừng, dụ dịch vào sâu phía bàn này biên giới.
Chúng tôi vòn nhau như vậy trong lúc trời vẫn vú, gió thói mạnh. Một lúc sau, bảo tuyết cuồng nộ nổi lên, tuyết mù mịt, không còn biết đâu là phương hướng. Chúng tôi lạc nhau, mỗi người gió thổi cuốn đi một ngả. Tôi băm vào núi mà đi, một hồi đầu óc xoay và, không còn biết mình đi đâu. Bão càng lúc càng dữ dội, tới mệt ngắt, bước không nổi nửa, ôm núi, trốn gió, tuyết quất như rơi vào mặt. Có thổi như muốn bật núi. Lạnh xuống dữ dội. Lạnh trưởng chừng như cả người tôi hoá đá. Tôi ôm núi như vậy suốt ngày và suốt ngày cứ nghĩ là mình sẽ buông rã tay ra, bay như băng tuyết giữa hư không.
Đến chiều, tuyết hơi ngớt, gió bớt mạnh. Tôi lần mò bò quanh núi tìm một học đã khuất gió để nương thân. Bò mái, đến khi kiệt sức, bỗng cái gì như một mái nhà hiện ra trước mắt, lờ mờ trong tuyết. Không! Một mái chùa! Một vách chùa đá dựng lưng vào núi! Mệt lả người, tôi lần ra nằm trên nền chùa, đấu nhu quay trong gió lốc, thân thể cứng đờ như đã ướp lạnh, giác quan tê liệt, mắt chẳng thấy gì ngoài một màn trắng mênh mông. Tôi nằm mê man như vậy không biết đến bao lâu, khi tỉnh dậy thì trời đã chợt tối.
Lúc đó tôi mới bắt đầu run, run vì lạnh, vì đói, vì mệt và chắc cũng vì sốt, vì tôi có cảm tưởng rằng tôi đang sốt. Tôi nhìn chung quanh. Chùa nhỏ như chỉ một người tu, trống trơn, không một bức tượng. Không bàn thờ, không chuông mõ, không chỗ ngả lưng. Chỉ thấy lù mù trong góc vách một bóng ai đang ngồi. Tôi giật mình nhìn kĩ, và ổn lạnh xương sống khi thấy người kia đang chĩa súng vào tôi. Cùng lúc mắt đã quen với bóng tối, tôi nhận ra binh phục của anh ta, và biết rằng mình đang đối mặt với kẻ thù. Tôi ngồi đờ ra như vậy nhìn người trước mặt. Anh ta vẫn hờm súng trong thế đe doạ, nhìn tôi. Qua giây phút kinh hãi lúc đầu, tôi dần dần bình tĩnh, nhận xét tình thế. Có thể là tôi lạc biên giới, rơi vào một vị trí do địch canh gác. Cũng có thể là chính anh ta lạc biên giới, rơi vào đất của tôi. Mà cũng có thể chẳng ai lạc vào biên giới của ai, cả hai đều bị bão tuyết thổi tốc vào ngôi chùa hoang này. Tôi thì chắc chắn đang ở trong thế yếu vì đang ngồi trước họng súng của người kia. Nhưng chắc gì anh ta đã ở trong thế mạnh hoàn toàn, biết đâu anh ta chẳng hoang mang ngỡ mình rơi vào đất hiểm! Trong tư thế hờm súng của anh ta, tôi nhận thấy một cử chỉ phòng thủ, không phải tấn công và ý nghĩ đó làm tôi vững dạ. Dẫu sao, anh ta và tôi vẫn đang có một kẻ thù chung; đêm lạnh băng và nếu không đuổi được kẻ thù đó, cả hai có thể chết cóng trong đêm. Sống khác nhau, cả hai có thể chết giống nhau.
Tôi thử lần thứ hai, củi vẫn không bén lửa. Lần thứ ba, tay tôi run hơn, lại thất bại. Nghe tiếng người kia cựa mình, tôi nhìn qua, thấy anh ta loay hoay móc túi, rút ra một mảnh giấy ném cho tôi. Giấy không bay đến gần, tôi phải mon men đến phía anh ta để lượm. Họng súng theo dõi tôi, tôi cầm mảnh giấy, mở ra, chữ viết lạ, nhưng chắc chắn là một bài thơ, tôi còn biết là một bài thơ chưa làm xong bởi vì đoạn cuối còn thiếu một câu. Tôi liếc nhìn người kia như để nói với anh ta rằng tôi biết đó là bài thơ, và biết anh ta là thi sĩ. Tôi tưởng cái nhìn của tôi sẽ làm dịu bớt căng thẳng nhưng không, trước mắt tôi họng súng vẫn không rời. Tôi châm lửa, và lần này cây diêm không cháy! Tôi mọi bao diêm: chỉ còn độc một cây! Tính mạng của tôi tuỳ thuộc vào cây diêm độc nhất còn lại. Lạnh xuống càng lúc càng khủng khiếp, và con sốt làm tôi run toàn thân.
Với hai bàn tay run, tôi toan bật cây diêm cuối cùng thì vụt như chớp người kia nhảy đến bên cạnh tôi, nắm tay tôi, giật bao diêm. Bị phản ứng bất ngờ, tôi hoảng hốt, không kịp suy tính gì, vớ lấy cây dao, hoa lên. Vừa lúc đó, mắt tôi bỗng thấy cả một vầng trăng sáng hiện ra từ bao giờ ngoài khung cửa. Bão lặng lúc nào tôi không hay. Tuyết hết rơi, trăng sáng vằng vặc. Trăng trên núi cao gần như chỉ cần đưa tay là vớ được, gần như mọc ngay trên mái chùa, gần như một khuôn mặt nhân hậu, gần như một nụ cười bao dung. Tự nhiên tôi ngừng tay, đứng sững. Người kia bẻ quặt tay tôi, giật con dao ném xuống đất. Tôi đứng sững. Và tôi đúng sững nhìn anh ta bật que diêm, châm lửa vào bài thơ, lửa cháy!
Tôi có thể chấm dứt câu chuyện ở đây vì lửa cháy và tôi đã sống. Nhưng lửa đã cháy từ lúc nào? Dĩ nhiên từ lúc diêm bén lửa. Nhưng tôi vẫn thường suy nghĩ hoài về một ngọn lửa khác đã cháy lên trước đó và đó chính là cây diêm đầu tiên. Tại sao người kia không thì cho tôi một phát súng ngay khi tôi đột nhập vào chùa? Cái gì đã làm cho anh ta không bắn tôi trong suốt thời gian tôi ngất lịm trên nền đá? Cái gì đã khiến cho tôi chùn tay lại khi con dao đã vung lên? Phải chăng đó là ánh trăng loé hào quang trên con dao? Nhưng tại sao trong cái giây phút bức bách đó, mắt tôi còn nhận ra được vầng trăng tròn nhân hậu trên mái chùa, vầng trăng quen
thuộc như khuôn mặt của mẹ tôi? Tôi cứ suy nghĩ hoài về những câu hỏi đó, vì phải chăng lửa đã có sẵn từ lâu, từ muốn thuở trong tim tôi, trong tim của mọi người?
Tôi muốn chấm dứt câu chuyện ở đây là vì thế là vì tôi không muốn động đến những vấn đề siêu hình làm tôi suy nghĩ suốt đời. Tôi muốn chấm dứt câu chuyện với sự thật đơn giản trước mắt: lửa đã cháy và sự sống đã đến với tôi từ trong lòng bàn tay của người mà tôi gọi là kẻ thù.
Thế nhưng... tôi sẽ kể tiếp để câu chuyện khỏi dang dở. Lửa cháy, lửa bùng lên, và hình như tôi có reo lên một tiếng sung sướng. Nhưng tiếng reo sung sướng chưa dứt thì tôi đã thét lên kinh ngạc: người kia bỗng nằm quy bên bếp lửa. Tôi trố mắt nhận ra máu loang đỏ một vùng. Tôi bước tới, ôm anh ta trong tay, cởi áo, áo đẫm máu. Anh ta chết trong tay tôi. Tôi ôm anh ta trong tay như vậy, bất động cho đến khi bếp lửa bắt đầu tàn. Và tôi suy nghĩ miên man. Như vậy là anh ta đã bị thương đã may mắn tìm được chỗ trú ẩn trong chùa, đã xé áo tự băng vết thương cho đỡ rướm máu... Nếu anh ta ngồi yên một chỗ, nếu anh ta không nhảy vụt đến cứu cây diêm cuối cùng đang run rẩy trong tay tôi, có thể vết thương đã thôi chảy máu chăng? Đã đành anh ta cũng cần bếp lửa để sống qua đêm, nhưng dù sao đi nữa thì cũng có một người đã chết để một người được sống và có bếp lửa không biết phân biệt kẻ thù. Tôi tần ngần mọi túi áo anh ta ra, không thấy có gì khác, chỉ có một bài thơ, chắc là bài thơ ban nãy, nhưng đã hoàn chỉnh vì không thiếu câu nào.
Sáng sớm hôm sau, tôi tìm về đơn vị và tiếp tục chiến đấu như một chiến sĩ. Tôi là chiến sĩ có huy chương cao nhất, trong các trận đánh sau đó. Nhưng ngay khi hết chiến tranh, tôi cởi áo giáp, một mình leo lên núi trong hai năm liền để xây lại ngôi chùa hoang. Tôi xây chùa không cốt để thờ Phật vì tôi biết Phật đã ở đâu trong tôi ngay từ đêm tôi sống trong chùa hoang. Tôi xây chùa để biết đâu, mười, hai mươi, một trăm năm nữa, sau một trận đánh nhau, hai kẻ thù bị thương, kiệt sức, có chỗ trốn bão tuyết trong giây lát, cứu nhau và cứu chất người trong nhau. Trong chùa tôi vẫn không đặt tượng và chuông mõ. Chỉ thờ có một bài vị: đó là bài thơ của anh bạn đã chết trong tay tôi. Bài thơ mà tôi không cần dịch ra để hiểu. Bởi vì, với một con người thi sĩ như vậy, bài thơ nào của anh chắc chắn cũng có ánh lửa của cây diêm cuối cùng.
(Cao Huy Thuần, Chuyện trò, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2012, tr 129 – 135)