Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc cho văn học thời trung đại.
Nguyễn Đinh Chiểu là nhà thơ mang một tấm lòng yêu nước sâu nặng. Trong cuộc đời cầm bút của mình, nhà thơ luôn lấy quan niệm đạo đức, tấm lòng vì dân vì nước làm tâm điểm trong sự nghiệp sáng tác của mình. Viết về nhiều đề tài khác nhau, nhưng có lẽ luôn sát cánh và cập nhật nhất vẫn là những vần thơ chống giặc, cổ động tinh thần yêu nước cùng nhân dân. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho những áng văn yêu nước của tác giả, thể hiện một quan niệm, một cách nhìn mới về người anh hùng của nhà thơ trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú luật Đường, bố cục gồm bốn phần đúng như quy định của thề văn tế. Tác phẩm ra đời đã khẳng định sự thành công trong ngòi bút viết vận tế cùa Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn được ra đời để tưởng nhớ đến các chiến sĩ cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến đấu chống xâm lược, cổ vũ, khích lệ tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là một tượng đài nghệ thuật hiếm có. Bi tráng là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: Vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thông thiết, bi ai. Thể hiện một quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu một cách mới lạ mà người đọc chưa từng thấy trong văn học yêu nước giai đoạn trước đó.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu có gì khác so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trước kia, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung thể hiện những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Còn đến với văn thơ Nguyễn Đình Chiểu hình ảnh về người anh hùng không có gì xa lạ mà ngay trong bản thản nông dân hiền lành, suốt ngày chỉ biết cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Có thể nói về người anh hùng, tác giả của chúng ta không phải đi tim kiếm những hình tượng ở đâu xa xôi cả mà đó là những người nông dân chân chất, thật thà có tấm lòng yêu nước sâu nặng. Cái tài của Nguyễn Đình Chiểu là đã phát hiện và xây dựng được hình tượng người anh hùng nông dân áo vải. Đây không phải là một cá nhân cụ thê mà đó là cả tập thể những người anh hùng, họ là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, suốt cuộc đời cui cút sau lũy tre xanh, chất phác, cần cù chịu khó làm ăn chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Họ là lớp người chân lấm tay bùn chì biết: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. Thế nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược những người dân ấp dân lăn ấy đã anh dũng đứng lên mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Đánh giặc để cứu nước nhà, để bảo vệ Bát cơm manh áo ở đời là cái nghĩa lớn mà họ mến và đeo đuối. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu văn giản dị mà thấm đượm một tinh thần yêu nước cao đẹp:
" Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ"
Nhà văn đã tái hiện lại một cuộc chiến đấu với sức mạnh quật cường và khí thế chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Cần Giuộc. Quân trang chỉ là một manh áo vải, vũ khí chỉ có một ngọn tẩm vông, hoặc một lưỡi dao phay, một súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Thế mà họ vẫn lập được chiến công chém rớt đầu quan hai nọ và đốt xong nhà dạy đạo kia. Quả thực, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng đài nghệ thuật về những người anh hùng chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chi nhọc quan quản gióng trông kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Đây là những câu văn tuyệt bút. Không khí chiến trận thật sôi sục trống kỉ, trống giục, đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Các chiến sĩ coi cái chết như không tấn công như vũ bão vào đồn của giặc. Với giọng văn hào hùng, phép đối tài tình, các động tứ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ... đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đà dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất, ngợi ca, khâm phục tự hào. Qua đó, ta thấy được lần đầu tiên hình tượng người nông dân đi vào thơ văn với tầm đứng của các anh hùng dân tộc, những anh hùng xuất thân từ tầng lớp nóng dân, quanh năm chân lấm tay bùn dường như chỉ biết có việc cày, việc cuốc, vậy mà khi có giặc xâm lược, họ đã anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và hăng hái nhất, chiến đấu quên mình cho nền độc lập dân tộc.
Cái độc đáo ở Nguyễn Đình Chiểu là nhìn thấy được những con người anh hùng ngay bên cạnh mình, đó không phải là các bậc hào kiệt anh tài mà chỉ là những người nông dân sống hiền lành, chăm chỉ làm ăn. Hàng ngày, họ vẫn luôn luôn gần gũi với chúng ta. Xuất phát từ cái nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về người anh hùng nông dân, làm cho người đọc nhận ra rằng những anh hùng, những con người cao cả không phải ở đâu xa mà họ luôn ngay cạnh bên mình. Có thể nói, quan niệm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng có được mà ta thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đi đầu về quan niệm này.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm lòng chiến đấu và hi sinh của họ là tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Bài học lớn nhất của người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang, chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng “Tượng đài nghệ thuật về người nông dân đánh giặc”. Bài văn tế được đúc kết thành một triết lí, một quan niệm sống của nhân dân ta:
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia...
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc cho văn học thời trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngữ bình dị, mà tinh tế, bài văn đã tái hiện chân thực và đầy xúc động cả một thời đại đau thương nhưng anh dũng của dân tộc. Tác phẩm là một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người anh hùng nông dân khởi nghĩa, thể hiện sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong chống giặc xâm lược. Bài văn tế là lời ca ngợi, biết ơn của Nguyễn Đình Chiểu về những con người hùng dùng hiên ngang, hình ảnh của họ mãi mãi đi vào tâm trí nhân dân với sự biết ơn và ngưỡng mộ, tự hào.