Xung đột trong đoạn trích: Nỗi oan hại chồng (Trích Quan Âm Thị Kính).
Hai nhân vật hoàn toàn đối lập nhau về tính cách. Sùng bà là đại diện cho giai cấp thống trị, cho lễ giáo phong kiến hà khắc, cổ hủ, cho tầng lớp trên. Còn Thị Kính thì nghèo hèn, hạ lưu. Nàng bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát.
Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về thể loại chèo (khái niệm, khái quát các đặc trưng cơ bản của thể loại…)
- Giới thiệu về vở chèo “Quan Âm Thị Kính” và trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” (tóm tắt, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
- Sơ lược về nỗi oan hại chồng của Thị Kính.
II. Thân bài
1. Tóm tắt nỗi oan Thị Kính:
- Thị Kính thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng:
+ Tâm trạng: băn khoăn
+ Suy nghĩ: trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta, dạ thưa chồng lòng thiếp sao an
+ Hành động: cầm dao khâu xén chiếc râu
- Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, kêu lên.
=> Thị Kính bị nhà chồng vu oan và phải theo cha về nhà.
- Thiện Sĩ: vừa chợp mắt đã thấy dao kia kề cổ.
2. Xung đột giữa Thị Kính và Sùng bà
- Sùng bà:
+ Nói về nhà mình: giống nhà bà đây giống phượng giống công, nhà bà đây cao môn lệnh tộc, trứng rồng lại nở ra rồng.
⇒ Khoe khoang, hãnh diện, vênh váo.
+ Nói về Thị Kính: liu điu lại nở ra dòng liu điu, mày là con nhà ốc, cả gan say hoa đắm nguyệt, dụng tình bất trắc, gái say trai lập chí giết chồng, mặt trơ như mặt thớt,…
⇒ Coi thường, dè bỉu, khinh bỉ, mắng nhiếc, lăng nhục.
+ Hành động: dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa đầu lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống…
⇒ Thô bạo, tàn nhẫn
- Thị Kính:
+ Hết lời phân bua, minh oan cho bản thân nhưng không được.
+ Hành động: theo cha về nhà, đi theo cha mấy bước, quay vào nhìn từ tràng kỉ đến sách, thúng khâu, cầm chiếc áo đang khâu dở bóp chặt trong tay.
⇒ Sự bất lực của Thị Kính.
=> Hai nhân vật hoàn toàn đối lập nhau về tính cách. Sùng bà là đại diện cho giai cấp thống trị, cho lễ giáo phong kiến hà khắc, cổ hủ, cho tầng lớp trên. Còn Thị Kính thì nghèo hèn, hạ lưu. Nàng bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của cả vở chèo nói chung và trích đoạn nói riêng.
- Xung đột ở đây là xung đột cơ bản, khó tìm cách giải quyết.
Bài mẫu
Sân khấu dân gian có hai loại hình quen thuộc là chèo cổ, luống cổ. Chèo cổ của dân tộc ta có đến hàng chục vở, trong đó có 4 vở quen thuộc với mọi người như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Kim Nham, Chu Mãi Thần... Trong số những vở chèo kể trên vở chèo Quan Âm Thị Kính được xem là hay nhất.
Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là phần đầu của vở chèo Quan Âm Thị Kính. Màn chèo này có 3 cảnh, có đủ 5 nhân vật nhưng chủ yếu xung đột kịch thể hiện qua hai nhân vật: Sùng bà và Thị Kính (mụ ác và nữ chính). Trong chèo Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, từ ngôn ngữ đến cử chỉ, hành động của mụ rất tàn nhẫn độc địa. Còn Thị Kính là cô gái gặp nhiều oan khiên.
Chồng của Thị Kính là Thiện Sĩ - con của Sùng bà. Trong một hôm vì mệt mỏi đèn sách, chàng ngơi mình bên tràng kỉ. Vốn yêu chồng, Thị Kính đến bên chồng ngồi ngắm dung nhan chồng. Vô tình Thị Kính phát hiện ra trên mặt chồng có chiếc râu mọc ngược, nàng toan cắt bỏ:
Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an
Âu dao bèn, thiếp xén tày một mực
Cùng lúc đó chồng nàng hô hoán:
Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng
Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường và Sùng bà quả quyết rằng Thị Kính định giết con bà. Mụ mạt sát Thị Kính là mặt sứa gan lim muốn hại con của bà. Mụ chửi Thị Kính như tát nước vào mặt:
Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ
Chứ bây giờ bay mới lộ cái mặt ra
Thị Kính càng vật vã kêu oan, than khóc bao nhiêu thì mụ càng lồng lên dữ dội bấy nhiêu. Mụ chửi mắng xỉa xói không thiếu một lời nào. Mụ cho rằng con dâu mụ gan to bằng trời, định sát hại chồng, hơn thế nó là kẻ hư hỏng đổ đốn.
Này con kia! mày có trót say hoa đắm nguyệt
Đã trên dâu dưới Bộc hẹn hò...
Mụ cho rằng Thị Kính là gái say trai lập chí giết chồng và như vậy mụ đòi chém bổ băm vằm xả xích mặt Thị Kính. Mụ xỉ vả Thị Kính hết lời mặt gái trơ như mặt thớt không hiểu phép tắc lễ nghĩa là gì không, không biết tam tòng tứ đức không? Chúng ta thấy rằng Sùng bà chẳng cần hỏi nguyên cớ ra sao, mụ một mực đuổi Thị Kính về nhà, mụ cho rằng gia đình mụ không thể dạy nổi người đàn bà hư hỏng này:
Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo
Này, bà bảo cho mà hay này: đồng nát thì về cầu Nôm
Con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không?
Mụ vênh váo vỗ ngực ta đây là gia đình thế gia vọng tộc, quyền quý cao sang: trứng rồng lại nở ra rồng còn Thị Kính là con nhà hèn kém bé nhỏ con nhà cua ốc, liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Với chồng mụ, mụ luôn mắng chồng khinh rẻ chồng, cho chồng là kẻ bợm rượu, ăn nói thì lèm bèm. Còn với Thiện Sĩ mụ hứa lấy cho nó dăm vợ. Thực ra cậu quý tử này là kẻ nhu nhược thậm chí còn đần độn. Đối lập với mụ ác là nữ chính Thị Kính, Thị Kính thật đáng thương. Nàng con nhà nghèo nhưng nhờ có chút nhan sắc nàng lấy được chồng là một nho sinh con nhà giàu có. Bi kịch mà Thị Kính phải gánh chịu là do chính nàng hành xử tuỳ tiện. Trong trích đoạn này ta thấy Thị Kính bị oan uổng. Trong sáu lần khóc van xin thì có đến bốn lần nàng cầu khẩn mẹ chồng soi xét, nhưng mẹ chồng nàng đều gạt phắt đi. Thực tế ta thấy rằng trong đoạn trích này chủ yếu là lời chửi rủa của Sùng bà, cứ sau mỗi hồi chửi bới hạ nhục thì lại có một hồi Thị Kính kêu oan cho mình. Nàng muốn nói mà không nói được, không có ai chịu nghe lời nàng nói. Bị vu oan, xua đuổi, hành hạ đến mức tột cùng. Tâm trạng bực tức Sùng bà trút lên Thị Kính và không còn cách nào khác nàng phải hứng chịu nỗi oan khiên đó.
Hai nhân vật hoàn toàn đối lập nhau về tính cách. Sùng bà là đại diện cho giai cấp thống trị, cho lễ giáo phong kiến hà khắc, cổ hủ, cho tầng lớp trên. Còn Thị Kính thì nghèo hèn, hạ lưu. Nàng bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát.
Chính những xung đột giữa hai nhân vật đã làm cho đoạn chèo đầy kịch tính, gây sự phản kháng đối với Sùng bà và lòng thương cho nỗi oan của Thị Kính. Tuy xung đột kịch còn chút sơ lược, chưa sâu sắc nhưng đoạn trích Nỗi oan hại chồng trong vở chèo Quan Âm Thị Kính đã gây ấn tượng mạnh cho người xem. Và vở chèo này thật xứng đáng được coi là vở chèo hay nhất trên sân khấu chèo Việt Nam ta.